Cảm nhận của anh (chị) về tiếng đàn của người kỹ nữ trên bến Tấm Dương.

Thứ bảy - 23/11/2019 10:56
Đề: Cảm nhận của anh (chị) về tiếng đàn của người kỹ nữ trên bến Tấm Dương.
Âm nhạc là một sự diệu kì không thể thiếu được trong đời sống tinh thần của con người. Người ta đã dùng biết bao mỹ từ, bao lời văn hoa để ngợi ca cái đẹp của âm nhạc, cái sức sống mãnh liệt và niềm hi vọng vô bờ bến mà âm nhạc đã đem lại cho cuộc sống. Thơ và nhạc luôn luôn gắn liền với nhạu trong nhạc có chất thơ, trong thơ có âm điệu tiết tấu của nhạc, Thơ làm đẹp cho nhạc và âm nhạc làm đẹp cho thơ...

Nhiều nhà văn, nhà thơ đã rất thành công nhờ việc sử dụng âm nhạc một cách tài tình, khéo léo, để lại dấu ấn sâu sắc trong tác phẩm của mình. Trong đó phải kể đến Bạch Cư Dị với khúc Tỳ bà hành. Có thể nói, Bạch Cư Dị đã rất thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ vừa giàu hình ảnh, âm thanh vừa có nhạc điệu, tiết tấu để diễn tả cái kì diệu của tiếng đàn người kĩ nữ.

Đọc Tỳ bà hành, ta cảm thấy cái say của một kẻ khát khi tìm thấy một chén rượu ngon “ tìm thấy sức sống và dường như chìm đắm trong cái say mãnh liệt của âm thanh tiếng đàn. Từng lời thơ, từng âm thanh điệu phách tình tứ cứ như thấm vào lòng người, làm rung động đến tận những chỗ sâu kín nhất của tâm hồn.
Những tưởng rằng mình đang ngồi trên chiếc thuyền nhỏ, lướt hai bên bờ lau sậy đìu hiu, bồng bềnh trên dòng sông lạnh. Mảnh trăng thu treo giữa bầu trời xanh ngắt và trôi theo con thuyền dưới đáy nước. Và dường như, trước mắt ta đây là người kĩ nữ bến Tầm Dương đang nỉ non, tâm sự với khách lãng du...
Tiếng đàn của nàng lúc buồn man mác, lúc nức nở nghẹn ngào, lúc đau đớn xót xa oán hờn. Con người ta như quên đi tất cả, phút chốc thả mình bồng bềnh theo cái ma lực hấp dẫn của âm thanh kia, tiếng đàn kia. Mà có lẽ, cái ma lực của tiếng đàn, điệu phách của âm nhạc còn chinh phục lòng người hơn cả những dòng chữ:

Ngón, buông, bắt khoan, khoan dìu dặt,
Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu
Dây to dường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ như trò chuyện riêng.


Sau mấy phút “tình đà thoảng bay”, tiếng đàn cất lên dìu dặt, du dương dưới những ngón tay gầy của kĩ nữ. Lần lượt, ta được thưởng thức khúc Nghê Thường và khúc Lục Yêu - hai khúc nhạc cổ đậm đà hương sắc tình yêu mà xưa kia Dương Quý Phi đã làm Đường Minh Hoàng phải mê đắm. Cả không gian tĩnh lặng, cô đơn trước đó giờ như trở nên ấm áp, rung động lòng người đến lạ thường.

Tiếng đàn nỉ non, khi trầm khi bổng lại có cả tiếng gió, mưa, tiếng của thiên nhiên đất trời. Tiếng đàn mang cả cái náo nhiệt của cuộc sống nhưng có lúc lại mang nỗi niềm thủ thỉ tâm tình của lòng người... Rồi từ đó, dường như nỗi lòng kỉ nữ cất cao tiếng hát tâm tình. Tiếng đàn chính là nơi gửi gắm và bộc lộ nỗi lòng đó. Mỗi tiếng đàn là một hạt châu long lanh nảy từ mâm ngọc làm hoa nở, chim oanh ríu rít, có cả tiếng suối, tiếng nước chảy trong vắt, khi róc rách rì rầm, lúc nhanh, lúc chậm:

Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy,
- Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.
Trong hoa oanh ríu rít nhau,
Nước tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh.

Có lẽ, chính các sức sống mãnh liệt của âm nhạc đã tạo ra sự kì diệu của âm thanh, của tiếng đàn đó. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã từng viết:

Phím đàn dìu dặt tay tiên
Khói tràm cao thấp, khúc huyền gần xa.
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như nước suối mới sa nửa vời.

Hay:
Trong sao châu nhỏ duyềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc lam diền mới đông.

Từng giọt âm thanh buông lơi tựa như tiếng rơi quy tụ của tinh hoa đất trời... Song đó cũng là “Một cung gió thảm mưa sầu - Bốn giây nhỏ máu năm đầu ngón tay”. Mỗi tiếng đàn. là một tiếng lòng phát ra từ trái tim của người kĩ nữ. Cái âm thanh rỉ máu ấy thật sầu muộn đau đớn và nghẹn ngào. Xót xa trong nỗi cô đơn! Tủi hờn trong phận lạnh lùng! Cái kiếp hồng nhan bạc mệnh sao thật lắm đắng cay!

Nước suối lạnh, dây manh ngừng đứt,
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ,
Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay.

Tiếng đàn còn gợi ta cả quá khứ lịch sử, về cuộc chiến tranh An Lộc Sơn, chỉ rõ cái phi nghĩa của cuộc chiến tranh đó, và dường như vẽ ra cái khung cảnh một xã hội loạn lạc, đầy rẫy những bất công:
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước,
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao...

Tiếng đàn nửa như oán trách, nửa như phẫn nộ. Âu cũng là bởi chính cái xã hội đó đã gây nên những khổ đau bất hạnh cho người kĩ nữ. Số phận nàng hiện lên trong tiếng đàn tài hoa: khi tuổi xuân phơi phới tài sắc tàn phai, nhạt nhoà thì bị lãng quên trong cô đơn. Trong xã hội đó, kĩ nữ bị coi như một món hàng rẻ rúng. Cái số kiếp “Sống làm vợ khắp người ta - Đến khi thác xuống làm ma không chồng” mãi đeo đẳng người kĩ nữ trong xã hội phong kiến. Dường như sự căm phận đau đớn của người kĩ nữ đã lên tới tột đỉnh... Người phụ nữ có tài, có tình, có sắc ấy lẽ ra phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc nhưng lại bị xã hội phong kiến tàn ác đẩy vào cuộc:

Vành lược bạc gãy tan nhịp gõ
Bức quần hồng hoen úa rượu rơi.

Có thể nói, ngôn ngữ hình ảnh đã được Bạch Cư Dị kết hợp một cách nhuần nhuyễn, uyển chuyển khiến cho tác phẩm trở nên có hồn, có sức sống hơn qua sự biến hình lung linh của tiếng đàn. Nó vừa là tiếng đàn thơ ngọt ngào say đắm lòng người, lại vừa là tiếng đàn hiện thực phản ánh sâu sắc xã hội Trung Đường bấy giờ... Làm sao có thể không rung động trước một tiếng đàn như thế?... ..
Bài của Nguyễn Lan Hương (có sửa chút ít)

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây