Bình giảng đoạn Kim Trọng trở lại vườn Thúy

Thứ năm - 21/11/2019 11:17
Đề: Bình giảng đoạn Kim Trọng trở lại vườn Thúy.

Kim Trọng trở lại vườn Thuý là một tiếng thơ đặc sắc được cất lên từ một nguồn cảm hứng sâu xa vào bậc nhất của hồn thơ Nguyễn Du: Nỗi đời dâu bể! Thực ra, nỗi đời dâu bể đã trở thành một ám ảnh da diết bao trùm lên toàn bộ đời thơ Nguyễn Du, thậm chí thành một nhãn quan thơ ca rất đặc trưng của nhà đại thi hào. Một đời người mà phải chứng kiến, phải nếm trải đến mấy phen “thay đổi sơn hà”, phải tận mắt nhìn thấy bao kiếp người như “tấm thân chiếc lá biết là về đâu”, Tố Như đã phải kêu lên: “Trải qua một cuộc bề dâu - Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Không chỉ làm nên cái tinh thần của kiệt tác Truyện Kiều, cảm hứng kia còn kết tinh thành thơ chữ Hán, kết tinh thành những câu thơ có sức khái quát về cả những kiếp người. Này là Đạm Tiên: “Nửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hương”, này là Thuý Kiều: “Khi sao phong gấm rủ là - Giờ sao tan tác như hoa giữa đường”, này là Tiểu Thanh - “Tây Hồ hoa uyển tận thành khư” (Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang)... Là một góc nhỏ bé, khiêm nhường, kín khuất giữa cõi đời ấy, nhưng vườn Thuý cũng là một “hoa uyển”, cũng chịu chung một thân phận như danh thắng Tây Hồ, cũng là nạn nhân của một cuộc bể dâu. Cho nên phong cảnh vườn Thuý chính là phong cảnh của “cõi người ta” thu nhỏ đó thôi! Trở về chốn cũ tìm lại người xưa thì cảnh cũ đã điêu tàn, người xưa đã vắng bóng. Tìm về vườn Thuý chỉ gặp một vườn hoang, tìm về địa chỉ của hạnh phúc lứa đôi, hoá ra phải viếng một di chỉ của tình yêu đôi lứa. Cơn dâu bể đã tàn phá chốn này, đã huỷ hoại tất cả những ước mơ được nhen nhóm từ nẻo vườn này, đã chôn vào tất cả những kỷ niệm vốn in lên, cườm lên khắp cảnh vật nơi này. Kim Trọng trở lại vườn Thuý là hoài cổ ư? Cũng phải! Nhưng có lẽ còn một cái gì hơn thế nữa!
Với bốn câu mở đầu nghiêng về tự sự, đoạn thơ đã đưa ta theo chân Kim Trọng tới vườn xưa:

Từ ngày muôn dặm phù tang,
Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhả.
Vội sang vườn Thuý dò la,
Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa.


Một chữ “vội” cho ta thấy “Nửa năm ở đất Liêu Dương” của Kim Trọng đã dài hàng thế kỉ, nói khác nào thân phận một người phải đi đày biệt xứ. Chữ “dò la” thì mách cho ta biết tất cả sự nôn nóng và lo âu, thèm được biết thông tin về người yêu sau ngần ấy thời gian biệt vô âm tín. Và cái ấn tượng chung đã là lành ít, dữ nhiều - “phong cảnh nay đã khác xưa”.

Nhưng cảnh tượng vườn Thuý chỉ thực sự được khắc hoạ ở mười câu sau. Bước chân chàng Kim đi tới đâu, ánh nhìn chàng Kim hướng vào đâu là lập tức những nét hoang phế điêu tàn hiện lên. Mỗi một nét đều muốn mách bảo cho Kim Trọng một sự thực phũ phàng là sự sống của con người đã từ lâu phai lạt, người thân yêu đã từ lâu vắng bóng. Tất cả chỉ cố sự ngự trị duy nhất của hoang vu tàn phế. Đây chỉ là cái thân xác tàn tạ điêu linh của vườn Thuý ngày xưa. Dĩ nhiên, tín hiệu đầu tiên là sự xâm lăng, lan tràn của cỏ:
Đầy vườn cỏ mọc lưa thưa.

Cỏ là sứ giả, là quân tiên phong của sự hoang hóa, tiêu trầm. Thay vì những lối đi được quét dọn, những khóm cây được xén tỉa, những vòm hoa được chăm sóc nâng niu. Bây giờ là sự tràn ngập của cỏ. Sự phong toả của cỏ. Trên cái nền um tùm tràn lan của cỏ, còn thấy phất phơ những ngọn lau. Lau đã lấn chiếm thì nghĩa là vườn đã bị bỏ hoang quá lâu rồi.

Thực ra, mối .quan tâm hàng đầu và sâu xa của Kim Trọng vẫn là con người. Cho nên nhìn toàn cảnh thấy cái thần thái đã thuộc về cỏ rồi, thì một sự nhạy cảm nào đó đã lập tức chuyển cái nhìn tìm kiếm của Kim Trọng vào một đối tượng trực tiếp hơn, hi vọng thấy người nhiều hơn. Ấy là nhà. Nhưng nhà cũng thế, đã từ bao giờ nó hoang tàn, đổ nát:
Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời...
Sự thực đã bày ra nhỡn tiền là con người đã từ lâu lắm không sống ở nơi này! Niềm hi vọng đã được trả lời bằng vô vọng.

Chàng vẫn tìm kiếm người. Trong nhà kia không có nhưng biết đâu vẫn còn có trong vườn, khuất sau cây cỏ chăng? Nhưng mà không:
Trước sau nào thấy bóng người.
Chỉ sót lại một thông điệp trớ trêu:

Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Tất cả khu vườn đều âm u, chỉ một đốm sáng nhỏ nhoi duy nhất là hoa đào, nét mặt bao trùm của vườn Thuý là trầm lặng rầu rĩ, chỉ có một nụ cười hiếm hoi duy nhất là hoa đào, bao trùm lên khắp vườn là hình ảnh của Hư vô, khắc sâu cảm giác mất, chỉ có một cái còn duy nhất chưa chịu bị hư vô hoá, ấy là hoa đào. Nó là tia hi vọng ư? Nó là niềm an ủi ư? Không! Chưa kịp an ủi, chưa kịp lạc quan thì hồn chàng Kim đã đau nhói rồi. Bởi hoa đào là tín hiệu của mùa xuân, của tình yêu. Nó là một thân nhân trung thành cố vượt qua băng hoại để chờ gặp cho được cố nhân, mà mách bảo tin dữ, mà kể lể, tiết lộ những biến cố phũ phàng? Nó cười trong gió đông ngạo nghễ với huỷ hoại tiêu điều hay nó mỉm cười chế diễu sự chậm trễ của chàng Kim. Chao ôi! Cái nụ cười vừa vô tình, lại vừa đồng cảm ấy, trong cái lúc này sao trớ trêu làm vậy! Với bông hoa đào ấy, ngày xưa Thôi Hộ đã khắc vào tâm khảm cái hình ảnh thơ mộng vào bậc nhất của người tình:
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
(Gương mặt người và hoa đào toả ánh hồng sang nhau).

Còn Kim Trọng cũng lưu giữ vào hồn mình những đường nét đẹp nhất của người yêu bên những khóm đào:
Dưới đào dường có bóng người thướt tha
đã thấy kỉ vật thiêng liêng nhất của người mình yêu vương trên những nhánh đào:
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa
Kỷ niệm thì khác nhau, còn kết cục đều phũ phàng trớ trêu như nhau: Người xưa lưu lạc nơi nào, chỉ có hoa đào cứ bất chấp, cứ điểm nhiên cười trong gió. Chỉ bằng một chữ “năm ngoái” (thay vì chữ “y như cũ” “ y cựu), Nguyễn Du đã gửi vào hoa đào cái tâm tình của một tình nhân Việt Nam. Nói khác đi, Nguyễn Du đã khiến cây đào của thơ Đường trổ hoa vào thơ Việt, hoà trong vườn đào Việt.
Chàng Kim vẫn không nguôi kiếm tìm. Không còn hi vọng thấy người, thì may chăng những kỷ niệm xưa vẫn còn được bảo tồn, lưu giữ. Khoảng trời đã hoang phế, chim én đã làm tổ ở những đầu hiên, điềm nhiên bay liệng, mặt đất thì lan tràn những cỏ. Vậy là nhìn bao quát khắp vườn cũng gặp cỏ, nhìn , vào nơi chỉ riêng những kỷ niệm lại cũng cỏ:

Sập sè én liệng rường không,
Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày.


Nguyễn Tuân đã có những lời bình phẩm thật tài hoa đối với chữ “phong” tinh diệu này. Tác giả Vang bóng một thời với một nếp trân trọng quá vãng, hồi cố, ưa chắt chiu những dư âm và dư ảnh của những thời tàn đã cảm nhận chữ “phong” với một nghĩa hẹp là “niêm phong” “ Rêu không nỡ xoá đi dấu giày của nàng Kiều, rêu mang trong nó tấm lòng Kim Trọng, nên đã cố gắng nâng niu che giữ cho chàng. Nhưng hiểu thế e rằng chưa chắc đã hợp với cái không khí hoang tàn, huỷ hoại chung ở đây. Có lẽ “phong” là phong toả là phong hoá mới ăn nhập với âm hưởng chung. Cả gai góc, cả cỏ, cả lau và cả rêu nữa đều đồng lòng vào hùa với nhau làm một việc thôi; ấy là xoá bỏ, huỷ hoại. Sứ mạng của chúng mà con tạo đã giao phó là biến “hoa uyển tận thành khư”, biến mảnh vườn tình ái của uyên ương mau chóng thành phế tích, thành di chỉ của tình yêu. Có hiểu thế mới hợp với thần thái của văn mạch, mới phù hợp với cảm xúc đau xót đang dày vò chàng Kim và mới ăn nhập với cái thân phận vốn bị đố kỵ phũ phàng của Thuý Kiều - Hoa ghen thua thắm liễu hờn kem xanh” kia mà!
Trên cái mảnh vườn, cái lối đi mà gót sen của người bên từng “Xăm xăm băng cối vườn khuya một mình ấy”, chàng Kim hẳn đã ghê người khi thấy:

Cuối tường gai gốc mọc đầy,
Đi về này những lối nay năm xưa.

Chân bước trong thực tại, hiện tại, nhưng lòng đang sống về quá khứ, đang chìm trong hoài niệm, chàng Kim thực đang chập chờn, mỗi bước đi như rơi về một cõi. Chàng hẳn sẽ rùng mình se lòng trong một thoáng nào đó thấy những gai góc của hiện tại như chợt xuyên vào gót chằn son của quá khứ. Có lẽ vì thế mà hai chữ “này” lặp lại ở câu sau chất đầy đau xót, như muốn đay đả một ai đó, một lực lượng vô hình mù quáng nào đó, nhưng rồi lại thành dày vò, dày xé chính lòng mình thôi!

“Đi về này những lối này năm xưa”.

Ta nghe thấy rõ có một cái gì trào dâng mà uất nghẹn!
Một mình trở lại vườn xưa để bị vây giữa hoang tàn và lặng ngắt. Những gì liên quan đến sự sống con người thì đều đang phôi pha, héo úa, tan rã: “song trăng quạnh quẽ”, “vách mưa rã rời”, “nào thấy bóng người”, “chung quanh lặng ngắt như tờ”... Còn những gì thuộc về tự nhiên, về con tạo thì hoàn toàn tương phản, chúng lấn lướt, lan tràn: “đầy vườn cỏ mọc”, “hoa đào cười gió”, “có lan mặt đất”, “rêu phong dấu giày”, “sập sè én liệng”, “gai góc mọc đầy”.v.v... Cái xu thế ấy đang muốn khoả lấp tất cả, chôn vùi tất cả. Lặng lẽ mà thách thức. Nó biến Kim Trọng thành kẻ chơ vơ lạc loài. Nó bất chấp nỗi đau dày vò Kim Trọng. Mà tưởng như, nó cũng đang muốn nhấn chìm chàng Kim vào giữa sự điêu tàn lặng ngắt ấy, muốn khuất phục nốt cái kẻ không chịu cam lòng này!

Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?

Vô vọng, bế tắc! Khối tình kia đã nghẹn lại trong lòng!
Ngòi bút tả tình, tả cảnh của Nguyễn Du thật nhuần nhị. Vườn Thuý vừa là một khách thể đối chọi với chủ thể trữ tình là chàng Kim, vừa là chính tâm trạng của chàng Kim. Ấy là phong cảnh của tâm trạng. Nên tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này. Cảnh hoàn thiện đến đâu, tâm trạng cũng dâng lên những cung bậc cảm xúc đến đấy. Hụt hẫng, tan vỡ, tuyệt vọng... lòng chàng Kim được nói trong thiên nhiên, nói bằng thiên nhiên kín đáo mà thấm thía khôn cùng!

 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây