Thơ là một thể loại văn học có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Hay nói cách khác, sự hình thành của thơ ca gắn liền với nhu cầu tự biểu hiện tình cảm của con người. Vì vậy, so với các thể loại văn học khác thì thơ ra đời từ rất sớm mà hình thức ban đầu của nó thường là những câu nói có vần có điệu xuất hiện trong những lời cầu nguyện, những bài hát của người xưa. Càng về sau, nghệ thuật biểu hiện của thơ ca càng trở nên phong phú, đa dạng và tinh tế hơn.
Các thể thơ chính thường gặp : thơ bốn chữ; thơ năm chữ (ngũ ngôn); thơ sáu chữ (lục ngôn); thơ bảy chữ (thất ngôn); thơ lục bát; thơ song thất lục bát; thơ tự do;... Ở đây ta chỉ đề cập tới hai thể thơ: thơ bốn chữ và thơ năm chữ.
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA THƠ BỐN CHỮ
Nếu xét về nguồn gốc và thời điểm xuất hiện thì thơ bốn chữ là thể thơ có nguồn gốc Việt Nam. Nó là một trong những thể thơ ra đời sớm nhất và được sử dụng nhiều trong văn học dân gian (tục ngữ, ca dao, vè, câu đố,...). Dân gian gọi đây là thể văn bốn (mỗi câu có bốn âm tiết). Cho đến nay, thơ bốn chữ vẫn tiếp tục được các nhà thơ dùng để sáng tác. Nhất là những sáng tác dành cho thiếu nhi (Lượm – Tố Hữu ; Kể cho bé nghe - Trần Đăng Khoa,...).
Nếu xét về nội dung thì thơ bốn chữ thường thiên về tự sự, kể chuyện, kể việc, kể người. Những nội dung ấy đơn giản, dễ hiểu, được bộc lộ trực tiếp ngay trong lời thơ. Đó có thể là những khúc đồng dao gắn với các trò chơi cụ thể trong sinh hoạt vui chơi của trẻ (Bịt mắt bắt dê, Rồng rắn lên mây, Phụ đồng ếch,...). Đó có thể là những lời gọi, những lời chuyện trò với các loài vật (Gọi nghé, Gọi bê,...). Đó có thể là các bài về kể vật, kể việc, nêu lên những đặc điểm của các loài vật, sự vật hay những sinh hoạt đời thường trong dân gian (Vè chim, Vè cá, Vè trái cây,...). Đó có thể là những bài mang nội dung khấn nguyện thuộc dân ca nghi lễ :
Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp...
Cũng có trường hợp, người xưa mượn khúc hát đồng dao của trẻ để nhắc đến tên tuổi các nhân vật lịch sử. Khúc hát nói về ông Ninh Quận Công Trịnh Toàn - một vị tướng giỏi của nhà Trịnh ở thế kỉ XVII là một ví dụ :
Ông Ninh ông Ninh
Đi đến đầu đình
Lại gặp ông Nang
Ông Nảng ông Nang
Đi đến đầu đàng
Lại gặp ông Ninh...
Ngày nay, trong thơ hiện đại, nội dung thơ bốn chữ có mở rộng hơn: miêu tả thiên nhiên, ca ngợi tình cảm gia đình,... Nhưng nhìn chung vẫn là thơ dành cho thiếu nhi (Ngủ nào ngủ ngoan - Xuân Quỳnh ; Quạt cho bà ngủ - Thạch Quỳ ; Làm anh - Phan Thị Thanh Nhàn ;...).
Về hình thức, thể thơ bốn chữ thường có nhịp chẵn (2/2):
Ông tiền / ông tiên
Ông có / đồng tiền
Ông dắt / mái tai
Ông gài / lưng khố...
(Đồng dao)
Tất nhiên vẫn có những trường hợp ngắt nhịp lẻ. Kiểu nhịp lẻ này linh hoạt, không cố định:
Em yêu / nhà em
Hoa xoan / trước ngõ
Hoa xao xuyến nở
Như mây / từng chùm
Vần của thể thơ này chủ yếu được gieo ở tiếng thứ tư (gọi là vần chân). Thỉnh thoảng có trường hợp gieo vần ở tiếng thứ hai (gọi là vần lưng). Vần được gieo liên tiếp giữa các cặp câu thì gọi là vần liền, vần được gieo cách câu thì gọi là vần cách.
Ví dụ : Trường hợp thơ bốn chữ gieo vần chân (là vần liền):
Nghé ơi nghé à
Mày đi theo ta
Đừng theo kẻ trộm
Nó cất mất rốn
Nó xèo mất đuôi
Lấy chi đuổi ruồi
Lấy chi đập bọ
Nghé ơ... Nghé ơ...
(Đồng dao : Gọi nghé)
Trường hợp thơ bốn chữ gieo vần chân (là vần cách):
Vụt qua mặt trán
Đạn hay vèo vèo
Thư đề thượng khẩn
Sợ chi hiểm nghèo
Đường quê vắng vẻ
Lúa trổ đòng đòng
Ca lô chú bé
Nhấp nhô trên đồng
(Tố Hữu - Lượm)
Trường hợp thơ bốn chữ gieo vần lưng :
Con cá có vây
Ông thầy có sách
Hàng bách có tàn
Ông quan có lọng...
(Vè)
Có thể nói rằng, cả lời và nhạc, cả nội dung và hình thức của thể thơ bốn chữ thường mang tính chất hồn nhiên, chất phác, phù hợp với tâm lí tuổi nhỏ (từ trẻ lên ba mới tập nói cho đến tuổi thiếu niên mười bốn, mười lăm).