Nhịp thường gặp ở thơ bốn chữ là nhịp chẵn (2/2). Rất ít trường hợp ngắt nhịp lẻ (1/3 ; 1/2/1). Còn nhịp thường gặp ở thơ năm chữ có phần phong phú hơn (2/3 ; 3/2 ; 1/2/2 ; 1/4 ; ...). Nắm được đặc điểm này ta phải lưu ý tới việc chọn từ phù hợp với cách ngắt nhịp. Thực tế cho thấy, ở hai thể thơ này, thường dùng các từ đơn hoặc các từ láy, từ ghép có hai tiếng. Ta có thể khảo sát một số ví dụ sau :
Ví dụ 1 :
Một trăm / tấm / ván
Một vạn / thằng / quân
Thằng / nào / cởi / trần
Đều / lăn / xuống / hố
(Câu đố : Sàng gạo)
Ví dụ 2:
Ơi / chích choè / ơi
Chim / đừng / hót / nữa
Bà / em / ốm / rồi
Lặng / cho / bà / ngủ
Bàn tay / hé nhô
Vẫn / quạt / thật / đều
Ngấn nắng / thiu thiu
Đậu / trên / tường / trắng
Căn nhà / đã / vắng
Cốc chén / nằm / im
Đôi mắt / lim dim
Ngủ / ngon / hà / nhé
Hoa cam / hoa khế
Chín / lộng / trong / vườn
Bà / mơ / tay / cháu
Quạt / đầy / hương / thơm
(Thạch Quỳ - Quạt cho hà ngủ)
Ở ví dụ 1 gồm 12 từ thì có tám từ đơn (một tiếng), bốn từ ghép (hai tiếng).
Ở ví dụ 2 gồm 53 từ thì có 42 từ đơn (một tiếng), tám từ ghép (hai tiếng) và ba từ láy (hai tiếng).
Ngay ở thơ năm chữ, dù có khi ngắt nhịp 2/3 hoặc 3/2, nhưng số từ ghép hoặc từ láy ba tiếng rất ít, chủ yếu vẫn sử dụng các từ đơn hoặc từ láy - từ ghép hai tiếng.
Ví dụ :
Mẹ / đan / tấm /áo / nhỏ
Bây giờ/ đang / mùa xuân
Mẹ / thêu / vào / chiếc / khăn
Cái hoa / và / cái / lá
Cỏ / bờ đê / rất /lạ
Xanh / như/ là / chiêm bao
Kín / bãi ngô / bãi dâu
Thoáng / tiếng cười / đâu đó...
(Xuân Quỳnh - Con chả biết được đâu)
Còn vấn đề gieo vần thì quả là hơi nan giải đối với những người đang tập làm thơ. Về lí thuyết, phải nắm được luật gieo vần của thể thơ bốn chữ và năm chữ. Gieo vần chân (ở cuối câu); gieo vần liền (bắt vần giữa câu chẵn với câu lẻ đứng ké ngay sau nó : câu 2 - câu 3 ; câu 4 - câu 5 ; câu 6 - câu 7) hoặc gieo vần cách (bắt vần giữa câu lẻ với câu lẻ, câu chẵn với câu chẵn ngay trong từng khổ thơ : câu 1 - câu 3 ; câu 2 - câu 4 ;...).
Khi tập gieo vần cần lưu ý là các tiếng cùng vần phải cùng thanh (thanh bằng đi với thanh bằng, thanh trắc đi với thanh trắc). Việc gieo vần và bắt vần cũng không nên quá máy móc. Có thể chấp nhận những trường hợp vần gần giống nhau (các tiếng có vần "ương" bắt vần được với các tiếng có vần "ươn", "ươm", "ơn", "uông", "uổn",... ; các tiếng có vần "a" bắt vần được với các tiếng có vần "oa", "ua", "uơ",...).
Ví dụ :
Gió của ông trời
Có khi rét buốt
Gió mẹ mẹ ơi
Lúc nào cũng mát
(Vương Trọng - Gió từ tay mẹ)
Khi vận dụng vào thực tế thì việc gieo vần khó ở chỗ các tiếng chứa vần ấy phải thể hiện được nội dung mà câu thơ, bài thơ cần biểu đạt. Như vậy, không chỉ hợp vần mà còn phải hợp với nội dung ý nghĩa. Muốn thực hiện yêu cầu này, người làm thơ phải có một vốn từ phong phú. Bắt đầu từ yêu cầu của nội dung cần biểu đạt, chúng ta liệt kê các từ gần nghĩa, đồng nghĩa có khả năng thể hiện được nội dung ấy. Sau đó, chúng ta sẽ chọn từ nào hợp vần nhất. Có trường hợp, cùng một nội dung, chúng ta có thể đưa ra nhiều cách diễn đạt khác nhau để chọn cách diễn đạt nào hay nhất, phối vần một cách hợp tình, hợp lí nhất. Tất nhiên, trong thực tế, các nhà thơ khi làm thơ không bị phụ thuộc vào việc phối vần quá nhiều. Từ mạch cảm xúc đang trào dâng trong tâm hồn, mạch thơ cứ thế tuôn chảy một cách tự nhiên. Còn với những người chưa phải là nhà thơ, khi làm thơ nói chung và làm thơ bốn chữ, thơ năm chữ nói riêng, việc gieo đúng vần vẫn là một thử thách lớn mà nếu không thể vượt qua thử thách này thì nhiều khi sẽ dẫn tới những trường hợp "ép vần" hoặc là thơ không có vần có điệu theo kiểu :
Hôm nay mồng tám tháng ba
Thương em anh tặng một vài câu thơ