Học và ôn luyện Ngữ văn nâng cao 9: Thuý Kiều báo ân báo oán

Thứ sáu - 06/09/2019 12:25
Học và ôn luyện Ngữ văn nâng cao 9: Thuý Kiều báo ân báo oán
Thuý Kiều báo ân báo oán
                    (Trích “Truyện Kiều”)
                                   Nguyễn Du
I. Đọc - hiểu
Thúy Kiều gặp Từ Hải - một anh hùng vị nghĩa “Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”. Từ Hải đã chuộc Kiều thoát khỏi lầu xanh (lần thứ 2), cưới Kiều làm vợ: “Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”. 
Sau “Nửa năm hương lửa đương nồng”, Từ Hải lại dứt áo ra đi “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong”. Chỉ một thời gian ngắn sau, Từ Hải đã dựng nên một cơ đồ to lớn:
Trong tay mười vạn tinh binh,
Kéo về đóng chật một thành Lâm Tri”.
Thúy Kiều đã dựa vào Từ Hải để báo ân báo oán.
Kiều đã báo ân những ai?
- Với Thúc Sinh:
Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân,
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là”.
- Với mụ quản gia (trong nhà Hoạn Bà) và sư trưởng (vãi Giác Duyên):
Mụ già, sư trưởng thứ hai,
Thoắt đưa đến trước, vội mời lên trên.
Dắt tay mở mặt cho nhìn:
“Hoa nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi.
Nhớ khi lỡ bước sẩy vời,
Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
Mà lòng Phiếu Mẫu mấy vàng cho cân”.
- Kiều đã báo oán những ai? - Hoạn Thư, Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Ưng, Khuyển, Bạc Bà, Bạc Hạnh.
Hoạn Thư đã được Kiều tha:
Đã lòng tri quá thì nên,
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay”.
Bảy tên bạc ác tinh ma khác đã bị trừng phạt nghiêm khắc:
“Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
Bên là Ưng, Khuyển, bên là sở Khanh.
Tú Bà với Mã Giám Sinh,
Các tên tội ấy đáng tình còn sao ?
Lệnh quân truyền xuống nội đao,
Thề sao thì lại cứ sao gia hình.
Máu rơi thịt nát tan tành.
Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời...”.
- Trong phần giảng văn, chúng ta chỉ học hai cảnh: Kiều báo ân Thúc Sinh và Kiều báo oán Hoạn Thư.

II. Đọc - cảm thụ
1. Phân tích đoạn thơ “ Thúy Kiều báo án báo oán”
Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi chốn thanh lâu, Kiều trở thành một mệnh phụ phu nhân. Chẳng bao lâu sau, Từ Hải đã có binh cường tướng mạnh:
Trong tay mười vạn tinh binh,
Kéo về đóng chật một thành Lâm Tri”. 
Kiều đã dựa và uy thế Từ Hải để báo ân báo oán.
Trong “Truyện Kiều”, cảnh báo ân báo oán là một tình huống giàu kịch tính, thể hiện ước mơ công lí ở đời. Cảnh báo ân báo oán được kể trong một đoạn thơ dài 162 câu thơ (từ câu 2289 đến câu 2450), Thúc Sinh, mụ quản gia, vãi Giác Duyên được báo ân. Hoạn Thư cùng 7 tên khác bị báo oán:
Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
Bên là Ưng, Khuyển, hên là sở Khanh.
Tú Bà với Mã Giám Sinh,
Các tên tội ấy đáng tình còn sao?”
Ở đây, chúng ta chỉ nói đến hai tình tiết: Kiều báo ân Thúc Sinh và báo oán Hoạn Thư. Tâm lí và cách ứng xử của Thúy Kiều, tính sáng tạo của Nguyễn Du là những điều mà ta có thể tìm hiểu và cảm nhận trong đoạn thơ này.
a. Báo ân Thúc Sinh
Sau khi mắc lận Sở Khanh, Thúy Kiều bị Tú Bà bắt ép làm gái lầu xanh. Và Kiều đã gặp Thúc Sinh “cũng nòi thư hương”. Là con rể của quan Thượng thư, một con người phong tình “quen thói bốc rời”. Lúc đầu chỉ là “trăng gió”, nhưng về sau, Thúc Sinh và Thúy Kiều trở thành “đá vàng”. Thúc Sinh đã chuộc Kiều, lấy làm vợ lẽ: “Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai”. Mặc dù sau này có chuyện đánh ghen, bị làm nhục, nhưng Thúc Sinh trong điều kiện có thể, nói với Hoạn Thư đưa Kiều ra Quan Âm các “giữ chùa, chép kinh”, thoát khỏi kiếp tôi đòi. Tuy “thấp cơ thua trí đàn bà” nhưng tình cảm của Thúc Sinh đối với Thúy Kiều, trong bi kịch vẫn “nặng lòng”:
“Bây giờ kẻ ngược người xuôi,
Biết bao giờ lại nối lời nước non?”.
Có thể chê trách Thúc Sinh này nọ, nhưng Thúc Sinh là ân nhân của Kiều, đã giúp Kiều hoàn lương. Kiều là một người phúc hậu, nên nàng không bao giờ có thể quên ơn chàng.
Trong cuộc tầm nã của ba quân, gia đình Thúc Sinh đã được Kiều quan tâm “giữ giàng”:
“Lại sai lệnh tiễn truyền qua,
Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên”.
Cảnh báo ân diễn ra, Kiều đã dùng một chữ “mời” rất trọng vọng “Cho gươm mời đến Thúc Lang”. Kiều nói về “nghĩa”, về chữ “tòng”, đề cao đạo lí thủy chung. Thúc Sinh là “người cũ”, là “cố nhân” mà Kiểu “há dám phụ”. Nàng khẳng định cái tình nghĩa của Thúc Sinh đối với mình ngày xưa là vô cùng to lớn, sâu nặng: “nghĩa nặng nghìn non...”. Kiều đã dùng một số từ như: “nghĩa, nghìn non, Sám Thương, chữ tòng, người cũ, cố nhân...” cùng với giọng điệu ôn tồn, biểu lộ một tấm lòng trân trọng, biết ơn một người đàn ông đã từng yêu thương mình, cứu vớt mình. Trái tim của Kiều rất nhân tình, nhân hậu; cách ứng xử của nàng đối với Thúc Sinh là giàu ân nghĩa thủy chung:
Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?”
Cái lễ vật chất mà Kiều báo ân Thúc Sinh cũng thật “hậu”, khẳng định cái nghĩa đối với “cố nhân” trong những năm tháng ở Lâm Tri là vô cùng sâu nặng:
“Gấm trăm cuốn, Lạc nghìn cân.
Tạ lòng, để xứng báo ân gọi là”.
Sau đó, Kiều dùng lời lẽ dân dã, sắc sảo để nói về “vợ chàng”. Bao năm tháng đã trôi qua, lòng Kiều vẫn chưa nguôi. Miếng ngon nhớ mãi, đòn đau nhớ đời có phải như thế không ? Vị thế đã đổi thay: kẻ là phạm tội, người là quan tòa đang ngồi trong trướng hùm giữa cảnh “gươm lớn giáo dài”:
Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”.
Kiều đã có 2 cách nói khác nhau: nói về ân nghĩa thì trang trọng, ôn tồn; nói về oán thì nôm na, chì chiết. Nguyễn Du đã tạo nên hai giọng điệu, hai thứ ngôn ngữ trong một lượt lời của Thúy Kiều, điều đó cho thấy thi hào rất tinh tế, sâu sắc khi thể hiện tâm lí nhân vật.
Dù là được báo ân, nhưng đứng trước cảnh “Bác đồng chật đất, tinh kì rợp sân”, Thúc Sinh cực kì khủng khiếp: “Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run”, mồ hôi toát ra “ướt đầm”, không nói được một lời nào, sống trong tâm trạng vừa “mừng”, vừa “sợ”:
Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,
Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai”.
b. Báo oán Hoạn Thư
Từ lần bị đánh ghen đêm ấy, đến nay đã bao năm tháng? Gặp lại Hoạn Thư lần này, trong tư thế của người “chiến thắng” ra tay báo oán, Kiều đã “chào thưa” bằng những lời “mát mẻ”:
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!”
Giọng nói trở nên chì chiết, đay nghiến. Các chữ “mấy tay”, “mấy mặt”, “mấy gan” như những mũi dao sắc lạnh:
“Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!”
Kiều nghiêm giọng cảnh cáo Hoạn Thư đã từng hành hạ mình, làm cho mình đau khổ: “Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiêu”.
Là “thủ phạm” đang đứng giữa pháp trường, xung quanh là bọn đao phủ đã “gươm tuốt nắp ra”, Hoạn Thư “hồn lạc phách xiêu”. Người đàn bà này tự biết tội trạng mình, cảnh ngộ mình, khó lòng thoát khỏi lưỡi gươm trừng phạt? Vốn khôn ngoan, sắc sảo, đứa con của “họ Hoạn danh gia” đã trấn tĩnh lại, tìm cách gỡ tội. Một cái “khấu đầu” giữ lễ, khi chân tay đang bị trói? Trước hết nhận tội “ghen tuông” và lí giải đó là chuyện “thường tình” của đàn bà. Tiếp theo Hoạn Thư gợi lại chút “ân tình” ngày xưa: một là, đã cho Kiều xuống Quan Âm các “giữ chùa chép kinh”, không bắt làm thị tì nữa; hai là, khi Kiều bỏ trốn mang theo chuông vàng khánh bạc, đã bỏ qua.
Cách nói rất khéo, chỉ gợi sự thật và chuyện cũ ra, chỉ người trong cuộc mới biết. “Nghĩ cho” là nhớ lại cho, suy nghĩ lại cho:
Nghĩ cho khi các viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.”
Đối với Kiều, Hoạn Thư đã từng nói với Thúc Sinh: “Rằng: tài nên trọng mà tình nên thương”. Tuy “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”, nhưng trong thâm tâm, Hoạn Thư “kính yêu” Thúy Kiều. Hoạn Thư tự nhận tội và xin Thúy Kiều rộng lượng:
“Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.
Lời gỡ tội của Hoạn Thư vừa có lí, vừa có tình. Lời cầu xin đúng mực, chân thành. Vì thế, Kiều phải “khen cho”. “Khôn ngoan đến mức nói năng phải lời”. Không thể là “người nhỏ nhen”, Kiều đã tha tội cho Hoạn Thư:
Đã lòng tri quá thì nền:.
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay”.
Sự việc diễn ra quá bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của nhiều người. Vốn là một phụ nữ trung hậu, đã từng nếm trải bao cay đắng và ngang trái trong cuộc đời, vả lại Kiều cũng tự biết rằng mình đã xâm phạm đến hạnh phúc của người khác. Tha tội Hoạn Thư, Thúy Kiều càng tỏ ra vô cùng cao thượng.
Ai đã từng đọc bản dịch “Kim Vân Kiều truyện”, đem đối chiếu với “Truyện Kiều”, ta mới thấy hết tài sáng tạo của ngòi bút thiên tài Nguyễn Du, nhất là trong cảnh báo ân báo oán. Cảnh pháp trường thời trung cổ được miêu tả ước lệ mà không kém phần uy nghiêm! Lời thoại rất gọn mà sắc đã làm nổi bật tâm lí, tính cách nhân vật Thúc Sinh lành mà nhát sợ, Hoạn Thư thì khôn ngoan, sắc sảo. Kiều rất trung hậu, cao thượng, bao dung.
Nguyễn Du đã sáng tạo nên những lời thoại biến hóa để nói lên chuyện ân oán, cái lẽ đời xưa nay, ca ngợi sự thủy chung tình nghĩa, lên án bọn bạc ác tinh ma. Cảnh báo ân báo oán là một tình tiết rất đậm làm nổi bật tinh thần nhân đạo của “Truyện Kiều”.

2. Một trong những giá trị lớn nhất của “Truyện Kiều” là tinh thần nhân đạo cao đẹp. Em hãy phân tích một số câu thơ Kiều, đoạn thơ Kiều để làm sáng tỏ nhận xét ấy
Trong “Đề từ tập thơ “Đoạn trường tân thanh”, Tiến sĩ Phạm Quý Thích đã viết:
“... Mặt ngọc lỡ sao vùi đáy nước,
Lòng trinh không thẹn với Kim lang.
Đoạn trường mộng tỉnh duyên đà đứt,
Bạc mệnh đàn ngưng hận vần vương ...”
                                                            Nguyễn Quảng Tuân dịch
Phạm Quý Thích là người cùng thời với Nguyễn Du. Lời Đề từ của nhà nho danh tiếng này đã khẳng định và ngợi ca giá trị nhân đạo của kiệt tác “Truyện Kiều”. Mười lăm năm trời lưu lạc của nàng Kiều là một thiên bạc mệnh thấm đầy lệ làm xúc động lòng người “Cảo thơm lần giở trước đèn... “. 3254 câu thơ Kiều dào dạt một tình thương mênh mông của Nguyễn Du trước những bi kịch cuộc đời - “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng ...”
Tinh thần nhân đạo là cảm hứng nhân văn bao trùm lên toàn bộ “Truyện Kiều”. Đó là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người như tài sắc, lòng hiếu nghĩa, vị tha, chung thuỷ trong tình yêu... Đó còn là tấm lòng của nhà thơ đồng tình với những ước mơ và khát vọng về tình yêu lứa đôi, về tự do và công lí; là sự đồng cảm, xót thương với bao nỗi đau, bị vùi dập của con người, nhất là đối với người phụ nữ “bạc mệnh” trong xã hội phong kiến. Có thể nói, cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du là cảm hứng trân trọng và thương yêu con người bị áp bức, bị chà đạp.
Tinh thần nhân đạo trong “Trụyện Kiều “, trước hết là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người. Kiều là hiện thân của cái đẹp và tài năng tuyệt vời. Nàng kiều diễm, rực rỡ “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Kiều không chỉ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” mà còn có một tài năng toàn diện, lỗi lạc rất đáng tự hào:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm”.
Kim Trọng, một văn nhân, tài tử “Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa”. Là một “thiên tài” hội tụ của tinh hoa thời đại “Văn chương nết đất, thông minh tính trời”. Mỗi bước đi của chàng Kim đều đem đến cho đất trời, cỏ cây hoa lá một sức sống đẹp tươi kì diệu:
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao”.
Mối tình của “Kim Trọng - Thuý Kiều” là một thiên diễm tình. Đó là một tình yêu tự nguyện vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo phong kiến, rất trong sáng và thuỷ chung của “Người quốc sắc, kẻ thiên tài”.
Kiều là một đứa con chí hiếu. Gia đình gặp tai biến. Tài sản bị bọn sai nha “Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”, cha thì bị tù tội. Kiều đã quyết hi sinh mối tình riêng, để cứu cha và gia đình. Hành động bán mình chuộc cha của Thúy Kiều thấm đượm một tinh thần nhân đạo cao đẹp, làm cho người đọc vô cùng cảm phục và xúc động:
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân “.
“Thà rằng liều một thân con
Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây”.
Đọc “Truyện Kiều” lần theo con đường khổ ải của Kiều, ta vô cùng cảm phục trước tấm lòng đôn hậu, hiếu thảo, tình nghĩa của nàng. Kiều như quên hết nỗi đau của riêng mình mà dành tất cả tình thương nhớ thắm thiết cho cha mẹ và hai em. Nàng lo lắng cha mẹ già yếu, buồn đau, không ai chăm sóc đỡ đần:
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ ...”
Tình tiết “trao duyên” trong “Truyện Kiều” cũng là một nét rất đẹp của tình cảm nhân đạo. Trước bi kịch cuộc đời “Hiếu tình khôn lẽ hai đường vẹn hai”, Kiều đã “cậy em” và trao duyên cho Thuý Vân thay mình trả nghĩa “nước non” với chàng Kim:
“... Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non. 
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Chiếc thoa với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ, vật này của chung...”
Tinh thần nhân đạo trong “Truyện Kiều” còn là tiếng nói đồng tình, đồng cảm của thi hào Nguyễn Du với những ước mơ về công lí, những khát vọng về tự do.
Từ Hải là một hình tượng mang màu sắc sử thi, một anh hùng xuất chúng có tài năng đích thực và sức mạnh phi thường. Một ngoại hình siêu phàm “Râu hùm hàm én mày ngài - Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”. Những chiến công hiển hách, lẫy lừng “Huyện thành đạp đổ năm toà cỗi nam”. Từ Hải là một anh hùng đầy chí khí “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!”. Người anh hùng ấy, khi lưỡi gươm vung lên là công lí được thực hiện:
Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dầu thấy bất bằng mà tha”.
Từ Hải đã đem uy lực của người anh hùng ra giúp Kiều “báo ân báo oán”. Hình tượng Từ Hải là một thành công kiệt xuất của Nguyễn Du trong nghê thuật xây dựng nhân vật, là một biểu hiện sâu sắc về tinh thần nhân đạo. vẻ đẹp nhân văn toát lên qua hình tượng này, tựa như ánh sao băng lướt qua màn đêm giông bão tăm tối của đời nàng Kiều vậy. Tuy ngắn ngủi nhưng sáng ngời hi vọng và niềm tin.
Số phận con người - đó là điều day dứt khôn nguôi của Nguyễn Du. Trái tim nhân ái bao la của nhà thơ đã dành cho kiếp người tài sắc bạc mệnh sự cảm thông và xót thương sâu sắc.
Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã trải qua mười lăm năm trời lưu lạc, nếm đủ mùi cay đắng, nhục nhã: “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết chết. Kiều phải hầu rượu đánh đàn trong bữa tiệc quan,... Sau bị ép gả cho người thổ quan, uất ức quá, nàng phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn. Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng nấc cất lên não lòng. Những từ ngữ: “thương thay”, “hại thay”, “làm chi”, “còn gì là thân” tựa như những giọt lệ chứa chan tình nhân đạo, khóc thương cho số đoạn trường:
“... Thương thay cũng một kiếp người,
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi.
Những là oan khổ lưu li
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!"...
Nhân vật Đạm Tiên mãi mãi là một ám ảnh đối với mọi người. Người kĩ nữ “Nổi danh tài sắc một thì” nhưng mệnh bạc đau đớn “Sống làm vợ khắp người ta - Hại thay thác xuống làm ma không chồng”. Kiều đứng trước mộ Đạm Tiên, cất lên lời đồng cảm thê thiết! Kiều khóc Đạm Tiên hay Nguyễn Du khóc thương cho nỗi đau của bao người phụ nữ bị vùi dập trong xã hội cũ?
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”
Nguyễn Du, nhà thơ thiên tài của dân tộc thông qua số phận và tính cách nhân vật trung tâm - Thuý Kiều - đã biểu hiện trong áng thơ tuyệt tác “Đoạn trường tân thanh” một cảm hứng nhân đạo sâu sắc, vô cùng cảm động. 
Tinh thần nhân đạo cao cả là nội dung tư tưởng đặc sắc tạo nên vẻ đẹp nhân văn của áng thơ này.Chúng ta vô cùng tự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn nhạy cảm vẻ đẹp của thiên nhiên, một trái tim giàu yêu thương, đồng cảm với tâm tư và số phận của con người, một tài năng lớn về thi ca đã làm rạng rỡ nền văn học cổ Việt Nam.
Nguyễn Du và “Truyện Kiều” sống mãi trong tâm hồn dân tộc, như tiếng hát lời ru của mẹ. Cảm hứng nhân đạo của nhà thơ là tiếng thương muôn đời:
“Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày...”
                                                     (“Kính gửi cụ Nguyễn Du” - Tố Hữu)

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây