Học và ôn luyện Ngữ văn nâng cao 9: Viết bài tập làm văn số 2 (văn tự sự)

Thứ năm - 05/09/2019 12:29
Học và ôn luyện Ngữ văn nâng cao 9: Viết bài tập làm văn số 2 (văn tự sự)
Viết bài tập làm văn số 2
(Văn tự sự)
Bài đọc tham khảo
* Đề tham khảo
Đề 1: Đã có lần em được cùng bố, mẹ (hoặc anh, chị) đi tảo mộ trong ngày Thanh minh. Hãy viết bài văn kể về buổi tảo mộ đáng nhớ đó.
Đề 2: Tưởng tượng 20 năm sau, vào một ngày hè, em về thăm lại trường cũ. Hãy viết thư cho một bạn học hồi ấy kể lại buổi thăm trường đầy xúc động đó.
Đề 3: Kể lại một giấc mơ, trong đó em được gặp lại người thân đã xa cách lâu ngày.
Đề 4: Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh. 
* Bài đọc tham khảo
Bài thứ nhất
Thanh minh đi tảo mộ
Thanh minh năm nào cũng vậy, bố mẹ cho hai chị em được về quê ngoại tảo mộ ông bà và cậu Quang. Lần nào chuẩn bị đi, chị Hoa và em đều náo nức, đêm nằm ngủ chỉ mong trời sáng.
Chiều hôm trước, mẹ đã mua đủ hương hoa, gói thành 3 gói to kèm theo nhiều bánh trái. Ra đi từ mờ sáng. Bố lai chị Hoa, mẹ chở em, con gái cưng của mẹ. Còn 3 hôm nữa mới đến ngày Thanh minh, nhưng hôm nay là ngày Chủ nhật, nên người đi tảo mộ đông lắm. Con đường liên huyện kéo dài, đường nhựa thẳng tắp, xe ô-tô, xe máy, xe đạp đi lại rộn ràng. Thỉnh thoảng lại nhìn thấy lố nhố người ở những nghĩa trang của các dòng họ trên những cánh đồng. Cuối tháng hai, trời ấm dần, mưa xuân rắc bụi, lúa xanh ngắt một màu. Mẹ nói với em: “Năm nay thế nào cũng được mùa lớn. Bác Thanh sẽ làm nhà mới”... Bác Thanh là chị gái mẹ em, làm giáo viên Tiểu học ở xã Bình Giang quê nhà.
Phải vượt qua nhiều cánh đồng, nhiều cầu xi măng bắc qua những con kênh nước trong xanh chảy hiền hòa, qua nhiều xóm làng. Cây đa, mái đình, nhà ngói đỏ tươi,... là những cảnh vật xóm thôn, đối với em vừa xa lạ, vừa thân thuộc.
Từ những nẻo đường làng, người đi chợ, đi làm ăn, người đi tảo mộ... xuất hiện đông vui. Nón trắng nhấp nhô. Đòn gánh tre kĩu kịt. Tiếng nói cười lao xao. Những đứa trẻ vắt vẻo ngồi trên lưng trâu, như những chàng kị mã, đối với em rất ngộ nghĩnh. Bức tranh quê thanh bình thật đáng yêu.
Người đông nên hơn một tiếng đồng hồ, xe máy của bố mẹ em mới về tới xóm Mai xã Bình Giang. Gia đình bác Thanh đã biết trước bố mẹ em về nên ở nhà đông vui chờ đợi. Chồng bác Thanh là sĩ quan Quân đội về hưu. Chị Nhật, anh Thành, anh Lý đều đang học phổ thông ở trường xã, trường huyện. Đã mấy lần, các anh các chị đã ra chơi nhà em, nên anh em chị em gặp lại nhau thật vồn vã, tíu tít vui mừng.
Bác Thanh và mẹ em bày một phần hoa trái lên bàn thờ ông bà. Hai bác và bố mẹ em thắp hương và khấn vái. Rồi cả nhà cùng đi ra nghĩa trang. Mấy chị em cùng tranh nhau mang lễ phẩm. Anh Thành vác cuốc, anh Lý cầm dao. Từ nhà đến nghĩa trang của làng độ một cây số. Đường làng được xi măng hóa, rất sạch. Các mương máng đều được xây thẳng tắp, chạy dọc ngang khắp các cánh đồng. Những cánh đồng lúa tám thơm - đặc sản của Bình Giang, bác Thanh nói, nổi tiếng khắp mọi miền đất nước. Đó là những cánh đồng cao sản 50 triệu trên một ha.
Nghĩa trang nằm ở giữa cánh đồng trên một khu đất cao, có một con mương chảy dọc phía bắc. Khu nghĩa trang khá rộng, trên 3.000m2. Lác đác có ngôi mộ xây rất hiện đại. Phần lớn là mộ xây chỉ viền xung quanh, phía trên vẫn có đất và cỏ. Hàng trăm, hàng nghìn ngôi mộ bé nhỏ, nhưng được sắp xếp, bố trí có hàng lối rất quy củ, nghiêm trang. Nhiều cây tỏa bóng mát.
Mộ ông bà ngoại nằm cạnh nhau. Phía trước có bia đá. Mộ chí ghi rõ họ tên ông bà, năm sinh và ngày, tháng, năm mất. Chị Hoa cùng mẹ và bác Thanh bày biện hoa trái lên mộ ông bà. Hai bác, bố mẹ em và mấy anh chị em cùng thắp hương khấn vái. Lần nào cũng thế, mẹ vừa khấn vừa khóc, cặp mắt đỏ hoe. Hương trầm phảng phất, ngọn khói u huyền cứ quấn lấy mộ chí. Em xúc động nhìn mộ ông bà rồi nhẩm tính: “Ông mất đã 14 năm, khi chị Hoa lên 3 tuổi; bà mất đã 6 năm, khi em lên 8 tuổi... Thời gian trôi quá nhanh”. Gió thổi nhẹ. Nến vẫn cháy tỏa sáng lung linh. 
Nắng xuân ấm áp trải vàng trên khu nghĩa trang. Người đi tảo mộ mỗi lúc một đông. Hương hoa cầm tay. Tiếng nói chuyện lao xao, tiếng gọi nhau í ới. Có rất nhiều người từ xa đi xe máy về. Bố mẹ em gặp lại nhiều bạn cũ thời còn học phổ thông, chuyện trò lưu luyến mãi.
Hết một tuần hương. Một tuần hương nữa lại bắt đầu. Cả nhà cùng đến khu nghĩa trang liệt sĩ. Ở đây có 72 ngôi mộ, tất cả là con cháu họ Hoàng, họ Lê, họ Nguyễn hi sinh thời đánh Mĩ trên các chiến trường xa. Phần lớn các ngôi mộ không có cốt, chỉ là mộ chí tượng trưng. Thế nhưng ngôi mộ nào cũng có bia đá, tạc hình ảnh, ghi rõ họ tên và ngày tháng năm hi sinh của liệt sĩ. Mộ cậu Quang cũng thế. Cậu là con út của ông bà, Cậu đang học Đại học Nông nghiệp năm thứ hai thì đi bộ đội. Cậu hi sinh tại chiến trường Đắc Tô năm 1974. Cậu là con trai duy nhất của ông bà. Mẹ vẫn nói: “Cậu cao to, học giỏi. Cậu hi sinh, ông bà cứ ốm đau mãi; bà như mất hồn, tê dại đi...”. Mẹ bày hoa quả lên mộ cậu. Mẹ khóc và khấn. Ai cũng thắp hương lên mộ cậu và thắp hương lên mộ các liệt sĩ trong nghĩa trang.
Độ 10 giờ thì cả nhà ra về với bao nỗi niềm thương nhớ. Người đến tảo mộ càng đông. Bao xúc đông cứ nén chặt trong lòng em rồi dâng lên bồi hồi. Hình ảnh ông bà ngoại, hình ảnh cậu Quang cứ vương vấn mãi hồn em.
Đã gần một năm trôi qua, nhưng màu xanh của đồng lúa và những ngôi mộ trong khu nghĩa trang, mộ ông bà ngoại, mộ cậu Quang... đã khắc vào tâm hồn em bao kỉ niệm, bao nhớ thương một thời thơ bé.
Thanh minh đi tảo mộ là một phong tục đẹp. Những kẻ tha hương bên trời Tây, ai còn nhớ ?
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là Đạp thanh...”
                      (Nguyễn Du)
                                                                           Nguyễn Thị Ngọc Phương
                                                                             Lớp 9 THCS Hải Dương
Bài thứ hai
Về thăm trường cũ
Thế là tôi đã sang tuổi 35. Sau nhiều năm đi làm ăn xa, lần này tôi mới được về dự hội trường, nhân dịp 40 năm trường được thành lập và đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba.
Trường Trung học cơ sở thân yêu của chúng tôi mang tên Nguyễn Bỉnh Khiêm, vị Trạng nguyên thời nhà Mạc, nhà thơ lớn của Đại Việt trong thế kỉ thứ XVI.
Mẹ tôi đã học ở ngôi trường này hơn 40 năm về trước. Sau đó, anh chị em tôi đều từ mái trường này bước vào đời. Có biết bao kỉ niệm đẹp một thời thơ bé với bao mộng đẹp.
Ngôi trường cũ 20 năm về trước chỉ có một nhà 2 tầng gồm 10 phòng học, 2 dãy nhà ngói mái ngói xi măng, mỗi dãy có 4 phòng. Suốt 4 năm, tôi vẫn học ở phòng số 3 dãy nhà bên trái. Tuy không được học ở dãy nhà 2 tầng, nhưng tôi vẫn cùng các bạn Kỳ, Anh, Lục, Đại,... bước lên cầu thang đi dọc hành lang ngó vào các lớp.
Cả trường chỉ có 3 máy vi tính loại cũ. Thư viện trường chưa có nhiều sách. Chỉ có vài cuốn Từ điển Tiếng Việt, Tiếng Anh. Những cuốn sách đó là niềm mơ ước của
tôi. Tôi quên sao được lần đầu tiên, cô Hương dạy Văn, cô Hóa dạy Anh, chỉ dẫn cho chúng tôi cách tra Từ điển. Tôi xúc động lắm khi được ngắm nhìn và nâng cuốn Từ điển Anh - Việt lên đôi tay nhỏ bé của mình. Tôi mơ ước bao giờ mua được một cuốn Từ điển như thế.
Sân trường rộng mênh mông. Xưa kia là sân cỏ nay được lát xi măng phẳng lì. Cột cờ xưa là cây bạch đàn bào nhẵn bóng nay là một ống thép không gỉ cao vút. Sáng thứ hai nào, bạn Lê, bạn Quý, học sinh xuất sắc của trường, cũng được thay mặt học sinh toàn trường kéo cờ trong lễ chào cờ đầu tuần. Tôi hằng mơ ước được vinh dự đó, nhưng suốt 4 năm học chỉ là một giấc mơ đẹp mà thôi.
Sân trường nơi chúng tôi hay vật nhau, kéo co hay đá bóng... ngày nay đã có thêm nhiều cây bàng, cành lá sum sê, tỏa bóng rợp mát. Cây bàng nhỏ bé ngày xưa cạnh thư viện, quả chín chua chua hạt nó có nhân ăn rất bùi. Bây giờ, thân cầy đã to bằng người ôm, vòm lá xanh biếc. Nhìn cây bàng, tôi xúc động như gặp lại cố nhân. Tôi khẽ thốt lên: “Bàng ơi! Có còn nhớ nhau chăng ?”...
Vườn sinh vật cảnh, vườn hoa... xưa đã đẹp, nay càng đẹp và chủng loại phong phú hơn.
Gặp lại bạn bè cũ, người nào cũng đã lập gia đình. Phần lớn đi công tác xa, làm ăn xa. Tổ 4 lớp 9C chúng tôi có 12 bạn đều về dự hội trường đông đủ. Bạn Lý, Quỳnh, Tâm đi dạy học. Vũ, Tính, Công, Trường là sĩ quan quân đội. Minh, Thăng là kĩ sư điện. Hà, Quế là bác sĩ. Và tôi là kĩ sư nông nghiệp. Như những cánh chim bay tới mọi chân trời, lâu lắm mới gặp nhau, chúng tôi vui mừng khôn kể xiết. Bạn bè sôi nổi nhắc lại kỉ niệm cũ. Chúng tôi cùng chụp ảnh và ghi địa chỉ cho nhau. Mới đó mà đứa nào trán cũng đã hằn những nếp nhăn, râu ria mọc lởm chởm!
Chúng tôi chỉ còn gặp lại 10 cô giáo, thầy giáo cũ. Nhiều thầy, cô giáo đã về hưu hoặc vào công tác tại các tỉnh phía Nam. Thầy Lợi hiệu trưởng đã mất. Cô Yến chủ nhiệm về hưu đã 4, 5 năm. Tóc cô bạc trắng. Cô vẫn dịu dàng như xưa... Chúng tôi tặng cô một bộ vét bằng len, một bó hoa đẹp. Cô cảm ơn, nước mắt chảy ra. Mỗi khóa học sinh đều có tặng phẩm tặng trường, tặng thầy, cô giáo cũ.
Hội trường đông vui có đến mấy nghìn người, kéo dài trong hai ngày. Tình thầy trò, tình bằng hữu... khiến ai cũng thấy mình trẻ lại.
Trường Nguyễn Bỉnh Khiêm hôm nay có một dãy nhà 3 tầng, hai dãy nhà 2 tầng to đẹp, khang trang. Trường có phòng máy tính. Thư viện có tới 2 vạn đầu sách. Phòng thí nghiệm, phòng bộ môn rất quy mô. Các thầy, cô giáo đều rất trẻ, tất cả đều đã tốt nghiệp Đại học. Trường đang dẫn đầu phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt” trong toàn tỉnh Thái Bình.
Bạn Lý nói với tôi: “Chúng mình chẳng mấy mà đến tuổi già, nhưng mái trường cũ thân yêu thì vẫn trẻ. Bài học uống nước nhớ nguồn và tình nghĩa thủy chung, bạn bè chúng mình vẫn nhớ và sắt son gìn giữ ... Đó là niềm vui và tự hào của mỗi chúng ta...”.
                  Hai mươi năm trời đã trôi qua.
                 Ôi! Một giấc mơ đẹp!
                                                                                      Nguyễn Thiên Lý, 9B
                                                                       Trường THCS Tiền Hải, Thái Bình 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây