Ngữ văn nâng cao 9: Phân tích và tổng hợp

Thứ hai - 17/02/2020 11:24
Phân tích là phương pháp phân chia trong thực tế hay trong ý nghĩa sự vật, hiện tượng, thuộc tính hay quan hệ ra thành các yếu tố cấu thành, sau đó nghiên cứu từng yếu tố cấu thành ấy một cách riêng rẽ, để cuối cùng sử dụng thao tác tổng hợp tiếp theo.
Tổng hợp trong làm văn không có ý nghĩa là một phép công đơn giản. Tổng hợp là bằng cách xác định những cái chung cũng như cái quy luật liên hệ, tác động qua lại giữa các yếu tố cấu thành ấy, ta lại kết hợp được chúng lại với nhau thành một chỉnh thể cố kết.
Quy nạp và diễn dịch
Phương pháp lập luận rất đa dạng và biến hóa. Khi muốn trình bày một ý kiến, muốn giải thích, chứng minh hay bình luận một vấn đề, người viết hoặc người nói phải sử dụng những phép biện luận, lập luận sau:
- Phân tích và tổng hợp.
- Quy nạp.
- Diễn dịch.

A- Phân tích và tổng hợp:
1. Phân tích
Phân tích là phương pháp phân chia trong thực tế hay trong ý nghĩa sự vật, hiện tượng, thuộc tính hay quan hệ ra thành các yếu tố cấu thành, sau đó nghiên cứu từng yếu tố cấu thành ấy một cách riêng rẽ, để cuối cùng sử dụng thao tác tổng hợp tiếp theo.
Muốn phân tích phải dùng lí lẽ để giảng giải, để cắt nghĩa bàn bạc,... Có khi phải phân tích chỉ ra các yếu tố các chi tiết hợp thành. Có lúc phân tích một từ ngữ, một hình ảnh,... tạo nên ý (nội dung) và vẻ đẹp, cái hay (hình thức) của một câu, một đoạn thơ văn.
Không có phân tích thì không có tổng hợp” (F.Ăngghen)

2. Tổng hợp
Tổng hợp trong làm văn không có ý nghĩa là một phép công đơn giản. Tổng hợp là bằng cách xác định những cái chung cũng như cái quy luật liên hệ, tác động qua lại giữa các yếu tố cấu thành ấy, ta lại kết hợp được chúng lại với nhau thành một chỉnh thể cố kết.

3. Giá trị và ý nghĩa
Quá trình phân tích là một quá trình tổng hợp được nâng dần lên mỗi lúc một sâu hơn, cao hơn, từ những chi tiết, bộ phận được trừu tượng hóa, khái quát hóa. Khi bắt đầu phân tích, chủ thể nhận thức đã có quan niệm chung về sự vật, tức là có sự tổng hợp ít nhiều rồi, và sau khi tìm hiểu được một bộ phận của chỉnh thể, chủ thể nhận thức đã tiến hành khái quát hóa, tức là đã tiến hành tổng hợp những tài liệu phân tích đầu tiên. Cứ như vậy phân tích và tổng hợp xen kẽ nhau, bổ sung cho nhau cho đến khi nhận thức được toàn bộ sự vật như một chỉnh thể.

Ví dụ a:
(..) “Người mẹ sinh con, mang nặng đẻ đau. Người mẹ nuôi con bằng dòng sữa của mình, bằng tâm huyết của mình, bằng toàn bộ tinh lực của mình. Ngoài nghĩa cả đối với Tổ quốc, đối với cách mạng có tình cảm thiêng liêng nào hơn tình cảm mẹ con ? Có sự hi sinh tận tụy nào bằng sự hi sinh tận tụy của người mẹ đối với con ?
“Dạy con từ thuở còn thơ”, đứa trẻ tiếp thu văn hóa loài người, đầu tiên chính là qua người mẹ, từng giây, từng phút, người mẹ truyền cho con những tình cảm, những ý nghĩ của mình, những điều mình từng trải trong cuộc sống. Mỗi lời nói, mỗi nụ cười, mỗi nét mặt buồn hay vui của người mẹ đều in sâu vào tâm hồn đứa trẻ những
ấn tượng mà đứa trẻ giữ mãi trong suốt cuộc đời. Dạy con biết nói, biết cười, ru con bằng điệu hát đầy ý nghĩa, khuyên bảo con những lẽ phải điều hay, v.v... chính bằng cách đó, người mẹ đã góp phần giữ gìn và lưu truyền văn hóa dân tộc từ đời này sang đời khác.
Không có sự đánh giá nào chính xác hơn, đầy đủ hơn sự đánh giá sau đây của Hồ Chủ tịch đối với công lao người mẹ: “Nhân dân ta rất biết ơn các bà mẹ cả hai miền Nam Bắc đã sinh đẻ và nuôi dạy những thế hệ anh hùng của nước ta. Tổ quốc Việt Nam có những người con anh hùng là nhờ công sinh thành của những người mẹ anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Chính những người mẹ Việt Nam, từ bao thế kỉ nay, đã truyền lại cho chúng ta khí phách của Bà Trưng, Bà Triệu, đức tính cần cù lao động, lòng thương nước, thương nhà. Chúng ta có quyền tự hào chính đáng về những bà mẹ Việt Nam”.
                                                                 Lê Duẩn
                                             (Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam)

Nhận xét
Phần trích trên đây có 3 đoạn văn. Tác giả vận dụng thao tác phân tích - tổng hợp một cách chặt chẽ tạo nên tính hùng biện, khúc chiết đầy thuyết phục. Đoạn văn nào cũng có phân tích tổng hợp; càng về sau thì tổng hợp ở mức độ sâu sắc hơn, rộng lớn hơn, khái quát hơn.
- Đoạn 1, phân tích công lao của mẹ đối với con, rồi khẳng định tình mẹ vô cùng thiêng liêng, sự hi sinh tận tụy của mẹ rất to lớn.
- Đoạn 2, phân tích công lao người mẹ dạy bảo con, từ đó tổng hợp, khái quát thành: “đứa trẻ tiếp thu văn hóa loài người, đầu tiên chính là qua người mẹ” và “người mẹ đã góp phần gìn giữ và lưu truyền văn hóa dán tộc từ đời này sang đời khác”.
- Đoạn 3, phân tích công lao to lớn của các bà mẹ ở hai miền Nam Bắc đã sinh đẻ và nuôi dạy những thế hệ anh hùng. Tác giả khái quát, tổng hợp: có những con người anh hùng là nhờ có những người mẹ anh hùng. Phụ nữ Việt Nam anh hùng, chúng ta tự hào về những bà mẹ Việt Nam.

Ví dụ b.   Đại trượng phu
1. Cảnh Xuân hỏi thầy Mạnh Tử:
- Công Tôn Diễm và Trương Nghi chỉ nổi một cơn giận khi đi du thuyết thì các nước chư hầu phải sợ; ngồi yên một chỗ thì thiên hạ không có chiến tranh. Hai người như thế chẳng phải là đại trượng phu ư?
- Hai người ấy gọi là đại trượng phu sao được? A dua, xiểm nịnh, nói lấy lòng vua các nước chư hầu để được quyền thế dọa người; tư cách hai người ấy như đàn bà lẽ mọn, thừa thuận phục tùng. Đại trượng phu đâu có thế!
2. Bậc đại trượng phu phải là:
- Tâm địa chí công như ở cái nhà rất rộng trong thiên hạ.
- Xử sự mực thước như ở cái ngôi chính vị trong thiên hạ.
- Hành động quang minh chính đại như đi trên đại lộ trong thiên hạ.
- Gặp thời thì đem tài trí, học thức ra thi thố cho thiên hạ được nhờ; không gặp thời thì một mình vui vẻ giữ vững, bồi bổ cái hay của mình. 
- Quyền cao chức trọng, giàu có chẳng làm xiêu được cái tâm; sự nghèo khổ chẳng làm biến đổi được cái tiết; sự uy hiếp của quyền uy, vũ lực chẳng làm nhụt được cái chí.
3. Thế mới gọi là đại trượng phu chứ !



Mạnh Tử
________________________
* Mạnh Tử (372-289).
* Công Tôn Diẻm và Trương Nghi là hai nhà thuyết khách nổi tiếng thời Chiến quốc (403-221).
* Đại trượng phu: người đàn ông có khí phách lớn trong xã hội phong kiến.

-> Bài “Đại trượng phu” được tác giả trình bày lí lẽ theo phép phân tích - tổng hợp dưới hình thức vấn - đáp. Vấn đề mà Cảnh Xuân hỏi Mạnh Tử là đại trượng phu.
Phần 1, Mạnh Tử phân tích và chỉ rõ Công Tôn Diễm và Trương Nghi, hai nhà thuyết khách nổi tiếng thời Chiến quốc chỉ là loại người a dua, xiểm nịnh, dựa quyền thế vua chúa để dọa người, hại người; tư cách như đàn bà lẽ mọn. Mạnh Tử phủ định: Công Tôn Diễm, Trương Nghi không phải là đại trượng phu.
Phần 2, Mạnh Tử nêu lên 5 tiêu chí - phẩm chất của bậc đại trượng phu: 1. tâm địa chí công; 2. xử sự mực thước; 3. hành động quang minh; 4. biết xuất, xử lúc gặp thời và khi không gặp thời; 5. cách ứng xử cao đẹp (lúc giàu sang, lúc nghèo khổ, lúc bị uy hiếp đều không thay đổi khí tiết).
Phần 3, khẳng định: “Thế mới gọi là đại trượng phu chứ!”.
->  + Ta thấy lí lẽ sắc bén, hùng biện, lập luận phân tích - tổng hợp rất chặt chẽ.

B- Quy nạp và diễn dịch:
1. Cách lập luận như thế nào gọi là quy nạp ?
Quy nạp là phương pháp nhận thức, trong đó quá trình suy lí đi từ cái riêng đến cái chung, từ những sự vật cá biệt tới nguyên lí phổ biến. Nội dung của nó là trên cơ sở một số trường hợp quan sát được, người ta phát hiện thấy có sự lặp đi lặp lại đó được ghi lại trong chuỗi phán đoán đơn nhất. Nếu không phát hiện thấy những trường hợp ngược lại thì chuỗi phán đoán đó là căn cứ hình thức cho kết luận chung: Cái đúng cho trường hợp quan sát được cũng đúng cho trường hợp tiếp theo hay cho tất cả các trường hợp tương tự với chúng. Khi số trường hợp tương tự trùng với số trường hợp quan sát được thì quy nạp được gọi là quy nạp đầy đủ. Còn khi số trường hợp tương tự là hữu hạn nhưng không quan sát hết được hay là vô hạn thì quy nạp được gọi là quy nạp không đầy đủ.
Trong thực tiễn cuộc sống cũng như khi làm văn (một bài văn cụ thể) thì quy nạp đầy đủ được ứng dụng rất hạn chế, còn quy nạp không đầy đủ lại được sử dụng rất rộng rãi, nhưng cần biết rằng kết luân được rút ra chỉ mang tính tương đối. Và cũng vì vậy, thao tác quy nạp phải được bổ sung bằng thao tác diễn dịch.

Ví dụ:
a. “Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dán Pháp hoặc bỏ chạy, hoặc đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
(...) Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 
Sự thật là nhân dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhạt, chứ không phải từ tay Pháp”.
                                               (Trích “Tuyên ngôn Độc lập”)

Nhận xét:
Từ những sự kiện lịch sử như: Từ 1940-1945, trong 5 năm, Pháp bán nước ta hai lần cho Nhật: từ mùa thu năm 1940, Việt Nam đã trở thành thuộc địa của Nhật; Nhật hàng Đồng minh; nhân dân ta đã giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - tác giả đi đến kết luân (quy nạp); “Sự thật là nhân dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Đó là một chân lí lịch sử hùng hồn mà kẻ thù của dân tộc ta không thể nào chối cãi được.

b. Sách là nơi hội tụ, tích lũy những tri thức của nhân loại xưa nay. Sách chứa đựng biết bao nhiêu cái hay cái đẹp về thiên nhiên tạo vật, về cuộc sống của con người trên hành trình vươn tới văn minh, tươi sáng. Sách mở ra trước mắt chúng ta những chân trời. Có áng thơ bồi đắp tâm hồn ta bao cảm xúc đẹp về tình yêu và lẽ sống. Có áng văn dẫn chúng ta đi cùng các nhân vật phiêu lưu, ru hồn ta lạc vào bao mộng tưởng kì diệu. Sách giáo khoa chẳng khác nào cơm ăn áo mặc, nước uống, khí trời để thở... đối với học sinh chúng ta. Cuộc đời sẽ vô vị biết bao nếu thiếu hoa thơm và thiếu sách. Nhưng sách phải hay, phải đẹp, phải tốt thì mới có giá trị và bổ ích. Thật vậy, mọi quyển sách tốt đều là người bạn hiền.

c. Niềm vui sướng của tuổi thơ là được cắp sách đến trường học tập. Bị mù chữ hoặc thất học là bất hạnh. Biển học rộng bao la; trước mắt tuổi trẻ thời cắp sách là những chân trời tươi sáng. Học văn hóa, học ngoại ngữ, học khoa học kĩ thuật, học nghề. Học đạo lí làm người để hiểu vì sao phải “tiên học lễ, hậu học văn”. Học ở trường, học thầy, học bạn. Học trong sách vở, học trong cuộc đời, “đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Học đi đôi với hành. Biết học còn phải biết hỏi. Tóm lại, chúng ta phải chàm chỉ, sáng tạo trong học tập, học tập một cách thông minh và có mục tiêu học tập đúng đắn.

2. Diễn dịch là như thế nào ?
Diễn dịch không chỉ là phương pháp trong đó quá trình suy lí đi từ cái chung đến cái riêng, mà còn là phương pháp rút ra các chân lí mới từ các chân lí đã biết nhờ các quy luật và quy tắc của lô-gíc học.
Quy nạp phải được bổ sung bằng diễn dịch cũng như diễn dịch phải dược bổ trợ bằng quy nạp. Quy nạp và diễn dịch gắn bó chặt chẽ với nhau như phân tích và tổng hợp. Chúng liên hệ với nhau, bổ sung lẫn nhau.
Trong một luận đề cụ thể, một bài văn cụ thể, nhất là kiểu bài chứng minh, phân tích văn học, chúng ta phải biến thao tác quy nạp - diễn dịch thành kĩ năng thành thục, biến hóa.

Ví dụ:
a. “Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngân cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dán tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiêu hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. 
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn dể làm cho nòi giống chúng ta suy nhược”.
                                                         (Trích Tuyên ngôn Độc lập)

Nhận xét:
Hồ Chí Minh đã sử dụng thao tác diễn dịch để căm giận lên án 5 tội ác vô cùng dã man về mặt chính trị của thực dân Pháp đối với nhân dân ta trong suốt 80 năm ròng. Câu văn ngắn, diễn đạt trùng điệp, đanh thép, hùng biện.

b. Em rất kính yêu và biết ơn mẹ. Có lẽ vì em là con út trong gia đình nên được mẹ dành cho nhiều tình yêu thương nhất. Mẹ tần tảo lo toan việc nhà từ bát cơm, bát canh đến tấm áo cho chồng con. Mùa hè cho đến mùa đông, mẹ đều thức khuya dậy sớm. Nét mặt mẹ đôn hậu, cử chỉ mẹ dịu dàng. Mẹ hi sinh, mẹ chăm chút việc học hành của đàn con thơ. Mẹ luôn nhắc nhở mấy chị em phải chăm chỉ, học hành, nay mai thi vào Đại học, đi học nghề, có công ăn việc làm chắc chắn. Mỗi lần được điểm 10, em về khoe mẹ, mẹ rất vui. Mẹ sung sướng, hãnh diện khi thấy đàn con ngày một khôn lớn. Tóc mẹ ngày một bạc thêm các con chưa đỡ đần mẹ được bao nhiêu. Em chỉ cầu mong mẹ được vui, được khỏe mãi.

c. Hồ Chí Minh là hình ảnh sống vê đạo đức cách mạng. Ở Hồ Chí Minh, thể hiện toàn vẹn đức tính chí công vô tư, cần, kiệm, liêm, chính, nhân, nghĩa, trí, dũng, với nội dung mới, mà Người đã để ra cho toàn Đảng, toàn dân. Nét đặc biệt của Hồ Chí Minh là khiêm tốn, giản dị, sự khiêm tốn giản dị chân thành và hồn nhiên của con người bao giờ cũng là chính mình, và chỉ cần là chính mình. Địa vị càng cao, uy tín càng lớn, Hồ Chí Minh càng khiêm tốn và giản dị. Trước tất cả và hơn hết mọi người trong mỗi ngày, mỗi việc, Hồ Chí Minh đã làm đúng điều Người nhắc nhở mọi cán bộ cách mạng, là trung thành và tận tụy làm người đầy tớ của nhân dân. Ở cương vị đứng đầu Đảng và Nhà nước, được tín nhiệm rất cao, Hồ Chí Minh vẫn sống như một người đảng viên và một người lao động bình thường, tôn trọng quần chúng và phục tùng tập thể, lắng nghe ý kiến của những người học trò và mọi người sống quanh mình, khi chuẩn bị một chủ trương quan trọng cũng như khi viết một bài báo.

Cuộc sống và việc làm hàng ngày của Bác thể hiện thật đẹp đẽ và sâu sắc ý thức tổ chức và ý thức tập thể, từ việc rất nhỏ đến việc rất lớn. Và trong mọi việc, Bác đòi hỏi phải có sự nhất trí sâu rộng của tập thể, từ đó mới có thể động viên được sức mạnh vô tận của khối đoàn kết toàn dân và đây là nhân tố quyết định.
Một điều đáng tự hào của Đảng cộng sản và dân tộc Việt Nam là ở đất nước mà người lãnh tụ được cả dân tộc yêu mến và tin tưởng đến mức lạ lùng, lại không hề bao giờ nảy ra sùng bái cá nhân với những tệ nạn của nó. Đó là phẩm chất của Hồ Chí Minh và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam. Con người Hồ Chí Minh trước sau như một, vượt qua thử thách của vinh quang, của quyền lực, của tuổi tác, của thời gian, làm sáng lên sự cao cả của con người.
                                                                             Phạm Văn Đồng

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây