Phân tích bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu

Thứ bảy - 06/04/2024 09:58
Tú Xương, tên thật là Trần Tế Xương là một nhà thơ khá nổi tiếng. Các tác phẩm của Tú Xương xoay quanh hai mảng trữ tình và trào phúng.

Phân tích bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Bài làm 1

Bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” của nhà thơ Trần Tế Xương, hay còn được biết đến với bút danh Tú Xương, thực sự là một tác phẩm văn học nổi tiếng và tiêu biểu của thời kỳ thức dân nửa phong kiến, khi nước ta đang phải đối mặt với sự thống trị của thực dân Pháp và chế độ thi cử phong kiến đang trải qua sự sụp đổ. Dưới đây là sự phân tích chi tiết hơn về bài thơ này:

Bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” được viết vào năm 1897, nằm trong bối cảnh xã hội Việt Nam đang chịu áp lực từ thực dân Pháp và chế độ thi cử phong kiến đang trải qua sự sụp đổ. Tú Xương, tên thật là Trần Tế Xương, là một nhà thơ nổi tiếng thời đó, người đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị về cả mặt văn học và xã hội. Bài thơ bắt đầu với hai câu đề mở: “Nhà nước ba năm mở một khoa/ Trường Nam thi lẫn với trường Hà.” Đây là bức tranh khái quát về thực trạng thi cử phong kiến ở nước ta cuối thế kỷ XIX, khi việc tổ chức thi cử là một thứ quyền lợi của nhà nước, và việc thi đỗ được thực hiện không thường xuyên. Tú Xương sử dụng ngôn ngữ hài hước và châm biếm để tạo ra một bức tranh thực trạng và khắc nghiệt về cuộc thi này. Ông miêu tả hình ảnh các sĩ tử “lôi thôi” và “Ậm ọe,” họ không còn mang vẻ nho nhã của những người thuộc tầng lớp trí thức mà trở nên hỗn loạn và đánh bại.

Bài thơ thể hiện sự phê phán sâu sắc đối với thực dân Pháp và chính quyền bộ máy quản lí nhà tù, qua việc miêu tả những quan lại như ban trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng trong tình trạng thối nát, tham nhũng, và tận dụng tình hình để đánh bạc hoặc tiêu biểu cho các vấn đề trong xã hội phong kiến đói khát và hỗn loạn.

Bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” của nhà thơ Trần Tế Xương, hay Tú Xương, đã sử dụng hai bức tranh biếm hoạ để thể hiện sự châm biếm và phê phán đối với cuộc thi cử và thực trạng xã hội tại thời điểm đó. Dòng đầu tiên của bức tranh miêu tả việc “lọng cắm rợp trời” cho quan sứ đến, tạo ra một hình ảnh ấn tượng về sự tráng lệ và long trọng của cuộc thi cử. Từ “lọng” chỉ ra sự xa hoa và rộng lớn, “rợp trời” biểu thị sự quyền uy và tôn nghiêm. Tuy nhiên, điều thú vị là ngay sau đó, tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật để đảo ngữ và chuyển sự long trọng thành sự hài hước khi miêu tả “váy lê quét đất” và “mụ đầm ra.” Hình ảnh của người phụ nữ mặc váy dạo chơi trong trường thi khiến cuộc thi trở nên lố bịch và đảo lộn. Điều này tạo ra tiếng cười chua chát và châm biếm về sự thay đổi và mất điểm trọng đại trong cuộc thi cử.

Câu hỏi “Nhân tài đất Bắc nào ai đó?” phản ánh sự thất vọng và niềm đau của tác giả đối với cuộc thi cử và tình hình đất nước. Tác giả đặt câu hỏi này để nhấn mạnh rằng trong bối cảnh thống trị của thực dân Pháp và chế độ thi cử phong kiến, việc tìm kiếm nhân tài và phục dựng đất nước đã trở nên quá khó khăn. Sự kỳ vọng vào những tài năng của đất Bắc đã biến mất, và cuộc thi cử đã trở thành một trò cười với tất cả những điều không tương xứng và thất thường trong nó.

Bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” của Tú Xương đã tạo ra một bức tranh hài hước và châm biếm về cuộc thi cử và tình hình xã hội thời kỳ thực dân nửa phong kiến. Sự đảo ngữ trong miêu tả và câu hỏi đầy ý nghĩa đã làm nổi bật tiếng cười chua chát và xót xa của tác giả đối với cảnh ngộ của đất nước. Bài thơ này không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn là một bức tranh sống động về thời đại đầy biến động và xúc cảm.

Bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” của Tú Xương không chỉ là một tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật, mà còn là một phản ánh sâu sắc về xã hội thực dân nửa phong kiến và thực trạng của cuộc thi cử. Nó giúp độc giả hiểu rõ hơn về tình hình xã hội và cách nhà thơ sử dụng văn học để thể hiện quan điểm và phản đối sự thống trị của thực dân Pháp và phong kiến. Bài thơ này đã tạo ra một tiếng cười chua chát, mở ra một cái nhìn sâu sắc vào xã hội thời đó và tiếng lời phê phán thậm chí còn rõ ràng hơn nếu ta cùng nhìn vào những hệ quả xã hội khó khăn mà bài thơ đã nêu lên.
 

Phân tích bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Bài làm 2

Tú Xương, tên thật là Trần Tế Xương là một nhà thơ khá nổi tiếng. Các tác phẩm của Tú Xương xoay quanh hai mảng trữ tình và trào phúng. Nổi bật trong mảng thơ trào phúng có thể kể đến bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.

Từ khoa thi Bính Tuất (1886), do thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, trường thi Hương Hà Nội bị bãi bỏ. Thực dân Pháp lo sợ sự bất bình của dân chúng nên đã tổ chức thi chung trường thi Hương Hà Nội với trường Nam Định (Nam Định), gọi chung là là trường Hà - Nam. Bài thơ được sáng tác trong thời gian Tú Xương tham dự kì thi Hương tại trường thi Hà – Nam. Vợ chồng viên toàn quyền Đông Dương Pôn Đu-me (Paul Doumer) và vợ chồng viên công sứ Nam Định Lơ Noóc-măng (Le Normand) có tới dự lễ xướng danh (ngày 27/12/1897).

Hai câu thơ mở đầu, tác giả Tú Xương đã giới thiệu khái quát về khoa thi Đinh Dậu:
“Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.”


“Trường Nam” là trường thi ở Nam Định, “trường Hà” là trường thi ở Hà Nội. Đó là hai trường thi Hương ở Bắc kì thời xưa. Nhưng khi thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội thì trường thi ở đây bị bãi bỏ, các sĩ tử ở Hà Nội phải xuống thi chung ở trường Nam Định. Từ “lẫn” cho thấy quang cảnh bát nháo, lẫn lộn của trường thi. Điều đó làm mất đi vẻ trang nghiêm của kì thi Hương.

Tiếp đến là khung cảnh nhập trường và xướng danh hiện lên cũng vô cùng khôi hài:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”


“Sĩ tử” là tư dùng để chỉ tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến, đi theo nghiệp bút nghiên. Họ thường có phong thái nho nhã, điềm tĩnh. Nhưng hình ảnh “sĩ tử” trong bài thơ lại được miêu hiện lên với vẻ lôi thôi, nhếch nhác. Khung cảnh trường thi vốn là nơi trang nghiêm mà giờ chẳng khác nào cảnh họp chợ, viên quan coi trường thi thì “ậm oẹ” và “thét loa” - nhốn nháo không khác gì nơi chợ búa. Một chi tiết nhỏ nhưng cũng phản ánh được hiện thực đất nước lúc bấy giờ.

Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, tính trào phúng còn được đẩy lên khi tác giả miêu tả hình ảnh của “quan sứ” và “mụ đầm”. Một kì thi mang tính trọng đại của đất nước nhưng hình ảnh xuất hiện lại thật khôi hài, nhố nhăng - “cờ kéo rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ” - lũ cướp nước đầy long trọng. Không chỉ vậy, từ xưa, chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, phụ nữ không được đến. Vậy mà bây giờ lại có hình ảnh “mụ đầm ra” với “váy lê quét đất” càng làm tăng thêm sự nực cười. Qua chi tiết này, chúng ta thấy được sự suy thoái của đất nước lúc bấy giờ. Tiếng cười trước cảnh tượng lố lăng nơi trường thi nhưng cũng là tiếc khóc cho cảnh ngộ mất nước lúc bấy giờ.

Hai câu cuối bộc lộ nỗi xót xa trước cảnh ngộ mất nước của tác giả Tú Xương:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”


Ở đây, nhà thơ đã sử dụng câu hỏi “nhân tài đất Bắc nào ai đó” như một lời thức tỉnh các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Kẻ thù xâm lược vẫn còn đó, thì đường công danh này có ý nghĩa gì. Đó là nỗi nhục nhã, đau đớn vô cùng của một con người yêu nước.

Bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu mang đậm dấu ấn phong cách sáng tác của Tú Xương, khắc họa được cảnh ngộ đất nước lúc bấy giờ cũng như bộc lộ nỗi niềm đau đớn, xót xa của tác giả trước cảnh ngộ đó.
 

Phân tích bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Bài làm 3

Sinh ra và lớn lên trong buổi đất nước ta gặp cơn sóng dữ của thời đại đến từ phương Tây, khiến cho thuần phong mĩ tục của một nước thuần phong kiến được xây dựng cả ngàn năm bị rung chuyển. Trần Tế Xương đã xuất sắc biến ngòi bút của mình thành thứ vũ khí sắc bén để bảo vệ chút nào đó nền văn hóa truyền thống dân tộc. Ông đã chọn cách biến bút pháp của mình thành bút pháp trào phúng, để châm biếm, lên án cái xã hội với cái văn hóa lai căng đương thời. Điều đó đã thể hiện rõ nét qua tác phẩm thơ nổi tiếng của ông “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu”.

Câu thơ đầu tiên, Tế Xương khẳng định sự quý trọng, hiếm hoi của khoa thi - ước mơ của bao sĩ tử nước ta lúc bấy giờ:
“Nhà nước ba năm mở một khoa”

Ba năm một lần, khoa thi tuyển chọn nhân tài cho đất nước được mở ra cho các thanh niên tài tử muốn đem tri thức ra để giúp nước giúp đời có cơ hội thể hiện mình. Trong bề dày lịch sử gần một ngàn năm phong kiến, đây vẫn là con đường tiến thân lập nghiệp quen thuộc của những sĩ tử “bụng đầy chữ thánh Hiền”. Sự trang trọng, quy mô của sự kiện này là không phải bàn cãi. Thế nhưng, khoa thi mà nhà thơ miêu tả lại của năm Canh Dậu, lại có gì đó thật khác, thật kì lạ:

“Trường Nam thi lẫn với trường Hà.”

Từ “lẫn” gợi sự lẫn lộn, thiếu rành rọt, rõ ràng, thiếu sự nghiêm túc, trang nghiêm. Tựa như người dân ta vẫn dùng từ lẫn cho mớ rau, mớ vải. Nay nhà thơ lại sử dụng cho các sĩ tử đến từ những nơi chuyên đào tạo nhân tài. Sĩ tử nơi này lẫn với sĩ tử nơi kia. Cách dùng này khiến các nhân tài nước Nam ta trở nên kém phần quan trọng, trở nên tầm thường như mớ ra, mớ vải ở ngoài chợ. Nhưng vì sao tác giả lại tả về các đồng môn bằng sắc thái đó? Điều này đã thể hiện rõ ở ngay hai câu thơ sau:

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ”

Tính từ “lôi thôi’ được đưa lên ngay đầu câu bằng thủ pháp đảo ngữ, nhằm nhấn mạnh dáng vẻ thiếu nghiêm túc, đứng đắn của các vị sĩ tử. Đến với hội thi ba năm mới mở một lần, các hiền tài đến từ các vùng miền chuẩn bị cho bản thân một dáng vẻ lôi thôi thì thật đáng buồn và chê trách. Sự xuất hiện của những lọ nước khoác trên vai, khiến họ càng thêm ì ạch, di chuyển lạch bạch. Dáng vẻ của những bậc nam nhi lòng mang chí lớn, mà lại luộm thuộm, lôi thôi chẳng khác gì người dân buôn bán mưu sinh ngoài chợ. Cũng bởi vậy, mà nhà thơ lại dùng từ lẫn khi khắc họa trưởng thi năm Canh Dần.

Nổi bật hơn cả thí sinh, chính là những vị quan lớn, bộ mặt của triều đình, của chính quyền trong trường thi:
“Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.”


Quan trường - người đứng đầu khoa thi xuất hiện với âm thanh “ậm ọe”. Một lần nữa, nhà thơ đã sử dụng thủ pháp đảo ngữ để thể hiện sự châm biếm sâu sắc với dáng vẻ của một vị quan lớn. Ậm ọe là âm thanh nạt nộ, hăm dọa. Một vị quan lớn, mà xuất hiện bằng cái âm thanh chua chát đi đằng trước, thật thiếu đi sự oai nghiêm cần có. Ông ta đến trường thi để trông thi - quản lí những sĩ tử bụng đầy kinh thư. Vậy mà lại phải hăm dọa, phải nạt nộ. Hình ảnh đó đã gián tiếp khẳng định sự lộn xộn trong tác phong của các sĩ tử. Rõ là người có học thức, mà hành động thì nhếch nhác, chẳng có chút gì nho nhã. Xứng với các sĩ tử đó, là một viên quan coi thi “to mồm gào rống” như đang giải tán đám đông ở chợ. Sự phối hợp nhịp nhàng của hai nhóm người đó “giúp” cho trưởng thi mất hẳn sự nghiêm trang, trịnh trọng cần có. Bối cảnh trưởng thi cũng nhở vậy mà trở thành một bức tranh lộn xộn, nhếch nhác đến không thể nhìn thẳng.

Sự châm biếm của nhà thơ chẳng hề dừng lại ở đó. Bởi ngay sau quan trường là sự xuất hiện của quan sứ và mụ đầm. Đây là hai nhân tố rất mới - đại diện cho hơi thở của văn hóa phương Tây đang xâm lấn nghiêm trọng. Họ xuất hiện một cách hiên ngang giữa trường thi - đất học linh thiêng của văn hóa phong kiến. Sự xuất hiện ấy thật kệch cỡm và nhố nhăng với lọng che rợp trời và vạt váy dài lê quét đất. Trường thi vốn là nơi linh thiêng, mang ý nghĩa văn hóa, chính trị quan trọng của cả một dân tộc vậy mà nay lại trở thành sân chơi cho những kẻ hợm hĩnh, kệch cỡm của nước ngoài. Họ mang theo thứ văn hóa lai căng đó vào làm cả cái trường thi vốn đã lộn xộn, nhếch nhác về hình thức, nay bỗng trở thêm càng lẫn lộn, nhố nhăng về ý nghĩa, bản chất.

Điều đó khiến một sĩ tử chân chính với lòng khát cầu giúp nước cứu dân như Tế Xương vô cùng đau lòng. Là một sĩ tử đi qua nhiều cuộc thi, từ thời các khoa thi vẫn vô cùng trang nghiêm, cho đến dáng vẻ kệch cỡm hiện nay, làm sao mà không đau lòng được. Có thể nói, chính ông đã nhận ra và cảm nhận sự thay đổi theo chiều hướng đi xuống đáy vực của nền thi cử nước nhà sâu sắc hơn bất kì ai. Cũng bởi vậy, mà nhờ thơ cay đắng thốt lên rằng:

“Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!”


Đây là lời than thở đầy xót xa, tủi nhục, cay đắng và cũng vô cùng bất lực của chính nhà thơ. Nhân tài đất Bắc từng là những ông nghè, ông cống, những người có tài có chữ. Tuy có thể nghèo về vật chất nhưng luôn giàu chữ nghĩa, giàu lòng tự tôn, giàu tinh thần dân tộc. Ấy vậy mà giờ đây, ngay giữa Thăng Long ngàn năm văn hiến, ngay giữa trưởng thi - nơi hội thụ hiền tài cho đất nước lại trở thành nơi cho thứ văn hóa lai căng, kệch cỡm chiếm cứ. Từ phiếm chỉ “nào ai đó” đã hướng tới một nhóm đối tượng cụ thể trong xã hội lúc bấy giờ. Đó là những nhân tài đất Bắc chân chính, còn giữ tấm lòng vì nước vì dân, còn biết xấu hổ trước cảnh nước nhà bị đô hộ, biết nhục nhã trước cảnh văn hóa dân tộc bị văn hóa phương Tây làm nhơ nhuốc. Động từ “ngoảnh cổ” được đưa lên đầu câu thơ, nhấn mạnh một cách dứt khoát của điều nên làm. Đó không chỉ là cái quay đầu của một bộ phận cơ thể, mà là sự nhìn về quá khứ, nhìn về lịch sử nghìn năm văn hiến huy hoàng của dân tộc. Để thấy được cái dáng vẻ kệch cỡm, nhếch nhác của hiện tại. Hành động ngoảnh cổ, là hành động chỉ xoay phần đầu, còn cơ thể thì giữ nguyên. Chi tiết đó cho thấy sự mắc kẹt ở hiện tại đau khổ, bẽ bàng của Tế Xương - một sĩ tử đương thời. Ông không cam tâm, ông không chấp nhận trở thành một trong những kẻ lôi thôi, nhục nhã ở ngoài đó. Chính vì vậy, Tế Xương đã khắc họa lại cảnh khoa thi năm Đinh Dậu với giọng điệu châm biếm sâu cay.

Ngôn ngữ trào phúng của Tế Xương không trữ tình như của Hồ Chí Minh, mà vô cùng sắc bén, góc cạnh. Ông đay nghiến những cái kệch cỡm, lai căng, nhếch nhác của hiện thực, để thể hiện trực tiếp thái độ của mình. Không chỉ trào phúng người, Tế Xương còn tự trào chính mình. Trào một sĩ tử chẳng thể làm gì giúp ích cho đời, chẳng thể nào xoay chuyển càn không, khôi phục cảnh huy hoàng trong quá khứ. Hiện thực nhố nhăng, nhốn nháo của trường thi mà Tế Xương tham gia đã toát lên những cay đắng, tủi nhục chất chứa như núi trong lòng nhà thơ. Đó chính là cách mà Trần Tế Xương thể hiện nỗi lòng và hồn thơ trào phúng của mình vào “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu”.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây