Nghị luận về văn bản Tràng giang của Huy Cận

Chủ nhật - 21/04/2024 09:25
Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới (1930-1945) với những tác phẩm có sự kết hợp giữ yếu tố hiện đại và cổ điển.

Nghị luận về văn bản Tràng giang của Huy Cận - Bài làm 1

Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới (1930-1945) với những tác phẩm có sự kết hợp giữ yếu tố hiện đại và cổ điển. Phong cách sáng tác của ông có sự khác biệt lớn gắn liền với hai thời điểm: trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. Có thể nói đó là sự chuyển biến từ nỗi u sầu, buồn bã vì thời thế trước cách mạng cho đến không khí hào hứng vui tươi sau cách mạng gắn với công cuộc đổi mới. Bài thơ “Tràng giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm chất chứa u buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người trôi nổi lênh đênh. Bài thơ để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả.

Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã có thể khái quát được tư tưởng và cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Hai chữ “Tràng giang” có thể nói là một con sông dài, mênh mông và bát ngát. Từ Hán việt này khiến người ta liên tưởng đến những bài thơ Đường của Trung Quốc. Nhưng chính tràng giang này cũng gợi lên được tâm tư của người trong cuộc khi muốn nhắc tới những thân phận nổi trôi, bé nhỏ sống lênh đênh trên con sông dài tâm tưởng và sông của nỗi u uất như thế.

Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” một lần nữa khái quát nên chủ đề của bài thơ chính là nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa trời đất mênh mông và bao la. Cả bài thơ toát lên được vẻ đẹp vừa hiện đại vừa cổ điển, cũng là đặc trưng trong thơ của Huy Cận.

Bước vào bài thơ, khổ thơ đầu tiên đã khiến người đọc liên tưởng đến một con sông chất chứa bao nỗi buồn sâu thẳm:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu tram ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng


Với một loạt từ ngữ gợi buồn thê lương “buồn”, “xuôi mái”, “sầu tram ngả”, lạc mấy dòng” kết hợp với từ láy “điệp điệp”, “song song” dường như đã lột tả hết thần thái và nỗi buồn vô biên, vô tận của tác giả trong thời thế nhiều bất công như thế này. Ngay khổ thơ đầu, nét chấm phá của cổ điển đã hòa lẫn với nét hiện đại. Tác giả đã mượn hình ảnh con thuyền xuôi mái và hơn hết là hình ảnh “củi khô” trôi một mình, đơn lẻ trên dòng nước mênh mông, vô tận, vô đinh. Sức gợi tả của câu thơ thực sự đầy ám ảnh, một con sông dài, một con sông mang nét đẹp u buồn, trầm tĩnh càng khiến người đọc thấy buồn và thê lương. Vốn dĩ thuyền và nước là hai thứ không thể tách rời nhau nhưng trong câu thơ tác giả viết “thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, liệu rằng có uẩn khúc gì chăng, hay là sự chia lìa không báo trước, nghe xót xa và nghe quạnh long hiu hắt quá. Một nỗi buồn đến tận cùng, mênh mang cùng sông nước dập dềnh. Điểm nhấn của khổ thơ chính là ở câu thơ cuối với hình ảnh “củi” gợi lên sự đơn chiếc, bé nhỏ, mỏng manh, trôi dạt khắp nơi. Có thể nói câu thơ đã nói lên được tâm trạng của các nhà thơ mới nói chung ở thời kỳ đó, một kiếp người đa tài nhưng vẫn long đong, loay hoay giữa cuộc sống bộn bề chật chội như thế này.

Đến khổ thơ thứ hai dường như nỗi hiu quạnh lại được tăng lên gấp bội:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu


Hai câu thơ đầu phảng phất một khung cành buồn thiu, đìu hiu và vắng lặng của một làng quê thiếu sức sống. Đó có phải là quê hương của tác giả hay không. Hình ảnh “cồn nhỏ” nghe rất rõ tiếng gió đìu hiu đến tái lòng ở ven dòng sông dường như khoác lên mình một nỗi buồn mặc định. Ngay cả một tiếng ồn ào của phiên chợ chiều ở nơi xa cũng không thể nghe thấy, hay có chăng phiên chợ ấy cũng buồn đến hiu quạnh như thế này. Một câu hỏi tu từ gợi lên bao nỗi niềm chất chứa, hỏi người hay là tác giả đang tự hỏi bản thân mình. Từ “đâu” cất lên thật thê lương và không điểm tựa để bấu víu. Khung cảnh hoang sơ, tiêu điều nơi bến nước không có một bóng người, không có một tiếng động thật chua xót. Hai câu thơ cuối tác giả mượn hình ảnh trời và sông để đặc tả sự mênh mông vô định. Không phải trời “cao” mà là trời “sâu”, lấy chiều cao để đo chiều sâu thực sự là nét tài tình, tinh tế và độc đáo của Huy Cận. Hình ảnh sông nước mênh mông và một chữ “cô liêu” ở cuối đoạn dường như đã lột tả hết nỗi buồn sâu thẳm không biết ngỏ cùng ai ấy.

Ở khổ thơ thứ ba, tác giả muốn tìm thấy sự ấm áp nơi thiên nhiên hiu quạnh này nhưng dường như thiên nhiêu không như lòng người mong ngóng:

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thương nhớ
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng


Sang khổ thơ thứ 3 dường như người đọc nhận ra một sự chuyển biến, sự vận động của thiên nhiên, không còn u buồn và tĩnh lặng đến thê lương như ở khổ thơ thứ hai nữa. Từ “dạt” đã diễn tả thật tinh tế sự chuyển biến của vạn vật này. Tuy nhiên từ ngữ này gắn liền với hình ảnh “bèo” lại khiến cho tác giả thất vọng vì “bèo” vốn vô định, trôi nổi khắp nơi, không có nơi bấu víu cứ lặng lẽ dạt “về đâu”, chẳng biết dạt về đâu, cũng chẳng biết dạt được bao nhiêu lâu nữa. Mặt nước mênh mông không có một chuyến đò. Tác giả chỉ đợi chờ một chuyến đò để thấy được rằng sự sống đang tồn tại nhưng dường như điều này là không thể.

Mong ngóng gửi niềm thương nỗi nhớ về quê hương nhưng tác giả nhận lại là sự im lặng của vạn vật quanh đây qua từ láy “lặng lẽ” đến thê lương và đìu hiu.

Ở khổ thơ cuối dường như bút pháp của tác giả được đẩy lên cao nhất, nét vẽ chấm phá dùng rất đắc điệu:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà


Có thể nói tư tưởng cũng như tâm tình của nhà thơ được gửi gắm qua khổ thơ này. Nét chấm phá “mây cao” và “núi bạc” giống như trong thơ Đường càng thêm sầu, thêm buồn hơn. Hình ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng chiều sa” là sự hữu hình hóa cái vô hình của tác giả. Bóng chiều làm sao có thể nhìn thấy được nhưng qua ngòi bút và con mắt của tác giả người ta đã hình dung ra được trời chiều đang dần buông xuống.

Hai câu thơ cuối cùng chính là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả chẳng biết gửi vào đâu, chỉ biết chất chứa đong đầy trong trái tim. Câu thơ của Huy Cận khiến chúng ta liên tưởng đến tứ thơ của Thôi Hiệu:

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Là sóng của sông hay là sóng trong lòng người


Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh. Qua đó khắc họa được tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của Huy Cận.
 

Nghị luận về văn bản Tràng giang của Huy Cận - Bài làm 2

Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới gai đoạn 1930-1945. Thơ ông thường là sự kết hợp giữa vẻ đẹp hiện đại và vẻ đẹp cổ điển, chúng đan hòa vào nhau tạo nên một chất thơ rất độc đáo. Trước Cách mạng, những sáng tác của Huy Cận thường mang một nỗi buồn man mác, bâng khuâng. Bài thơ “Tràng giang” là tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận với việc vẽ lên bức tranh thiên nhiên đượm buồn để nói lên tâm tư, nỗi niềm của thi sĩ về kiếp người nhỏ nhoi, lạc trôi vô định giữa dòng đời rộng lớn.

Ngay từ nhan đề, “Tràng giang” gợi lên một không gian mênh mông, sầu thẳm. Tràng giang nghĩa là sông dài. Thế nhưng nhà thơ không dùng trường giang mà thay vào đó là tràng giang, một từ Hán Việt có ý nghĩa sâu rộng hơn. Hai âm thanh của vần “ang” kéo dài, ngân nga, nó không chỉ là con sông dài mà còn mở ra trước mắt bạn đọc một khoảng sông nước mênh mông, vô tận.

Dòng sông vừa rộng, vừa dài gợi lên trong tâm hồn thi sĩ một cảm giác xốn xang pha chút sầu thẳm. Giữa không gian rộng lớn ấy, kẻ trữ tình đứng đây, ngắm nhìn và tâm hồn trở nên cô lieu, đượm buồn về sự nhỏ bé của chính mình trước sự bát ngát của thiên nhiên. Lời tựa đề cũng chính là cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ. “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Từ láy “bâng khuâng’ như lột tả hết được tâm hồn của người thi sĩ.

Trước sự mênh mông của đất trời, kẻ thi sĩ thấy tràn lên một sự cô đơn, một nỗi buồn không biết tỏ cùng ai. Nó gặm nhấm tâm hồn ông để trở thành nỗi nhớ, thành niềm hiu quạnh. Bên trên là bầu trời xanh thẳm bát ngát, ở dưới là dòng tràng giang mênh mông, nhà thơ đứng đó, ở giữa và càng cảm thấy mình nhỏ bé, cô liêu. Lời đề từ ngắn thôi nhưng đã làm toát lên vẻ đẹp vừa cổ điển, vừa hiện đại đặc trưng cho phong cách và cảm hứng trong thơ Huy Cận.

Ngay mở đầu bài thơ, dòng sống đã gợi lên một nỗi buồn sầu thẳm.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”


Hàng loạt từ ngữ lột tả nỗi buồn được nhắc đến. Nó làm cho tâm hồn kẻ trữ tình man mác, bâng khuâng. Nỗi buồn ấy kết hợp với hai điệp từ “song song, điệp điệp” càng như dài, vô tận không điểm dừng. Nỗi buồn cứ triền miên, trải dài và như sâu thẳm hơn. Thuyền và nước vốn là hai vật không thể tách rời, chúng quấn quýt, hòa quyện vào nhau. Thuyền xua mái, nước đẩy thuyền trôi lênh đênh, nhưng tại sao ở đây, “thuyền về nước lại sầu trăm ngả”? Liệu rằng đó có phải hình ảnh của một cuộc chia li không báo trước?

Cuộc chia li làm ai cũng phải ngậm ngùi, buồn bã. Thuyền và nước là hai hình ảnh rất quen thuộc trong thơ cổ điển. Thế nhưng đắt nhất trong khổ thơ lại là hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng”. Giữa dòng nước vô tận ấy, hiện lên bóng dáng một cành củi nhỏ bé đang lênh đênh theo nhịp chảy của dòng nước. Con số một dường như càng nhấn mạnh hơn sự nhỏ bé, lẻ loi.

Cành củi ấy không biết mình sẽ đi đâu về đâu giữa mênh mông nước cuốn. Rồi dòng nước nào sẽ cuốn nó đi, nó cũng không biết. Mọi thứ như vô định, không phương hướng. Hình ảnh cành củi khô như là nỗi ám ảnh trong lòng người đọc về những kiếp người bé nhỏ, đang phó thác cho số phận, cuộc đời họ bấp bênh, cô độc không lối rẽ. Một cảm xúc nghe sao tê tái, xót xa.

Sang khổ thơ tiếp theo, tác giả lại vẽ lên một tràng giang đìu hiu, thê lương hơn.

Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều


Cùng một câu thơ nhưng tác giả sử dụng tận hai từ láy. “Lơ thơ” gợi tả sự thưa thớt, ít ỏi. Những cồn cỏ vốn phải tươi tốt,trải dài một màu xanh mượt mà. Nhưng ở đây, chúng lại lác đác, lơ thơ, thiếu sức sống. Từng con gió “đìu hiu” thổi qua, nó như mệt mỏi, tiêu điều. Khung cảnh ấy gợi lên sựu lạnh lẽo, cô độc khiến cho con người càng thêm cô đơn đến nỗi phải thốt lên “đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”.

Chợ vốn là hình ảnh của sự ấm nó, đông đúc. Ở đó là nơi con người tụ tập, trao đổi buôn bán. Nó vốn dĩ phải trào lên những âm thanh sống động, tiêng cười nói của con người nhưng ở đây nhà thơ lại sử dụng hình ảnh chợ chiều. Buổi chiều chợ đã vãn người, chỉ còn lại khoảng đất trống vắng tanh. Tất cả như càng làm nổi bật lên nỗi niềm cô đơn, hiu quạnh đang dấy lên trong tâm hồn người thi sĩ.

Sang khổ ba, không gian yên ắng ấy đã có âm thanh của sự dịch chuyển.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang


Từng đám bèo nối nhau trôi dạt giữa dòng nước mênh mông. Tuy ở đây đã có sự di chuyển nhưng chính cái động ấy càng làm tâm hồn nhà thơ thêm tê tái. “Bèo” là hình ảnh vẫn hay tìm thấy trong thơ cổ điển nhưng nó lại là biểu tượng của sự bấp bênh, trôi nổi. Từng hàng béo đại diện cho biết bao số phận lạc long giữa sóng gió cuộc đời. Chúng cứ nối dài đến vô tận. Cảm giác lạnh lẽo, không chút “thân mật”, không có gì để có thể kéo tâm hồn nhà thơ ra khỏi nỗi cô đơn, tiêu điều.

Sau bức tranh của sông nước tràng giang mênh mông, vô tận, mãi đến cuối bài thơ, tác giả mới bộc bạch nỗi niềm của mình.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”


Trên bầu trời từng đám mây cứ hiện lên, cuồn cuộn như những dãy núi màu bạc trắng. Những cánh chim nhỏ bé đang chao liệng, nghiêng mình trong bóng chiều tà. Chiều tà đẹp nhất có lẽ là ở nông thôi. Buổi chiều gợi cho ta nỗi nhớ về quê nhà, về những gì thân thương nhất. Hình ảnh làn khói chập chờn trong ánh hoàng hôn là những nét vẽ đẹp nhất vè sự ấm no của quê hương. Và đứng trước không gian ấy, nỗi nhớ quê nhà trào dâng lên trong lòng người thi sĩ.

Như vậy, với những hình ảnh mang đậm phong cách cổ điển cùng hồn thơ nhẹ nhàng, sâu lắng, “Tràng giang” đã gợi lên trong lòng người đọc biết bao cảm xúc dạt dào. Nó là tiếng nói nghẹn ngào của những tâm hồn bé nhỏ, của những cuộc đời bấp bênh, là nỗi nhớ và tình yêu tha thiết đối với quê hương, đất nước.
 

Nghị luận về văn bản Tràng giang của Huy Cận - Bài làm 3

Nhà thơ Huy Cận, tên thật là Cù Huy Cận, được biết đến với giọng thơ độc đáo và sâu sắc, đã để lại dấu ấn đặc biệt trong phong trào thơ mới của Việt Nam từ những năm 1930 đến 1945. Sinh ra tại Hương Sơn, Hà Tĩnh vào năm 1919 và qua đời vào năm 2005, ông đã từng trải qua nhiều giai đoạn khác nhau trong sự nghiệp và tác phẩm của mình. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ của Huy Cận thường mang nét u buồn về cuộc sống và ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, với những tác phẩm nổi bật như "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", và "Kinh cầu tự". Tuy nhiên, sau Cách mạng tháng Tám, tâm hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan hơn, lấy cảm hứng từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động, như trong những tác phẩm "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", và "Bài thơ cuộc đời". "Tràng Giang" là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Huy Cận trước thời kỳ Cách mạng tháng Tám.

Bài thơ "Tràng Giang" được lấy từ tập thơ "Lửa thiêng". Huy Cận đã viết nên tác phẩm này khi đứng bên bờ Nam của bến Chèm, sông Hồng. Trong lúc ngắm nhìn cảnh nước chảy mãnh liệt, ông đã cảm thấy lòng mình như trôi dạt, lẻ loi giữa dòng đời vô thường. Tâm trạng buồn bã, hồn uất ức của ông đã được thể hiện qua những dòng thơ đầy bi thương này. Bài thơ vừa mang nét cổ điển, vừa hiện đại, thu hút và gợi cảm cho độc giả.

Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp
....
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.


Ngay từ câu đầu tiên, tác giả đã khéo léo gợi lên hình ảnh một không gian mênh mông, rộng lớn của trời và sông. "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài", những từ ngữ giàu hình ảnh đã đưa người đọc vào một không gian trầm lắng, kỳ bí của trời cao và đất rộng. Sóng nước dậy lên, trở thành "tràng giang buồn điệp điệp", mang theo nỗi buồn sâu thẳm, cảm xúc không lời. Hai dòng cuối cùng của bài thơ, "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà", như một lời than thở về nỗi nhớ nhà, nỗi hoài cảm đầy ẩn chứa trong lòng mỗi con người.

Từng chi tiết trong bài thơ đều được tác giả chăm chút, từ việc chọn từ ngữ đến cách sắp xếp cú pháp. "Tràng giang" không chỉ là một bức tranh về cảnh vật thiên nhiên, mà còn là một bức tranh về tâm trạng con người, về những suy tư sâu xa về cuộc sống và tự nhiên. Điều này chính là điểm đặc biệt và thu hút của bài thơ này

Những khổ thơ của "Tràng Giang" khắc họa một tâm hồn lạc quan nhưng cũng u sầu, mênh mang như dòng nước chảy không ngừng của sông Tràng Giang. Huy Cận không chỉ là một nhà thơ biết thể hiện sự tương tư, buồn bã trước cuộc sống, mà còn là một nghệ sĩ tài ba với khả năng kết hợp giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong từng dòng thơ.

Câu đề ngắn gọn "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài" đã chứa đựng nhiều cảm xúc phong phú. Trước bức tranh vô cùng rộng lớn của trời và sông, lòng người bỗng dưng tràn ngập cảm giác bâng khuâng và nhớ nhung. Từ "bâng khuâng" không chỉ là sự u sầu, buồn bã mà còn là sự cô đơn, lạc lõng, vô nghĩa giữa vũ trụ bao la. Tâm trạng này càng trở nên rõ nét qua từ ngữ mạnh mẽ và hình ảnh mênh mông, khơi gợi sự lặng lẽ và bi thương.

Không gian mênh mông của sông Tràng Giang được mô tả một cách sâu lắng và đầy tinh tế trong những khổ thơ đầu tiên:

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một càng khô lạc mấy dòng."


Những từ ngữ như "buồn", "sầu", "lạc", "mấy dòng" đều thể hiện sự cô đơn và tuyệt vọng trước vẻ đẹp mênh mông của thiên nhiên. Hình ảnh con thuyền trôi xuôi theo dòng nước cũng như cành củi lạc lõng giữa vô vàn sóng nước đã tạo nên một không gian u buồn, đầy nghẹn ngào và hoài niệm.

Tuy vậy, vẻ đẹp cổ điển của bài thơ không chỉ là sự biểu hiện của cảm xúc trữ tình mà còn là sự kết hợp hài hòa giữa hiện đại và cổ điển. Huy Cận đã thể hiện điều này qua các hình ảnh và từ ngữ:

"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
 Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều."


Những từ "lơ thơ" và "đìu hiu" tạo nên một bức tranh quạnh vắng, đầy bi thương. Sự hoang vắng của không gian cồn nhỏ được tận dụng một cách khéo léo để tạo ra cảm giác cô đơn và lạc lõng. Đồng thời, việc nhấn mạnh vào sự im lặng của làng xa, chợ chiều càng làm sâu sắc thêm nỗi cô đơn và hoang vắng trong tâm hồn nhân vật.

Một trong những điểm đặc biệt nhất của "Tràng Giang" chính là khả năng kết hợp giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại, vừa mang lại cảm giác gần gũi và thân thuộc với người đọc, vừa làm mới và sâu sắc hơn những cảm xúc truyền thống. Điều này đã khiến cho bài thơ trở nên đặc sắc và gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc

Bài thơ "Tràng Giang" của Huy Cận không chỉ đơn thuần là một tác phẩm thơ mang vẻ đẹp cổ điển, mà còn là một hiện thân của sự kết hợp tinh tế giữa cái cổ điển và hiện đại trong nghệ thuật thơ. Tác giả đã khéo léo sử dụng cấu trúc phủ định để tạo ra một không gian hoàn toàn cô đơn, tách biệt khỏi mọi kết nối con người, chỉ còn lại một mênh mông thiên nhiên.

Bằng cách sử dụng cấu trúc phủ định "không... không", Huy Cận đã làm nổi bật sự cô đơn và tuyệt vọng của nhân vật trước sự vô tận của thiên nhiên. Không có chuyến đò ngang, không có điểm giao kết nào của con người, chỉ có sự bao la và lặng lẽ của mênh mông sông Tràng Giang. Nhưng giữa sự hoang vắng ấy, tác giả vẫn khéo léo vẽ nên vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bầu trời:

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
 Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa."


Hình ảnh của "mây cao đùn núi bạc" không chỉ là một biểu tượng của vẻ đẹp cổ điển, mà còn là một tưởng tượng hiện đại về vẻ đẹp của thiên nhiên. Cách Huy Cận sử dụng từ ngữ và hình ảnh đã tạo ra một bức tranh hoàn hảo về cảnh vật, vừa đầy nghệ thuật vừa sâu sắc.

Tuy vậy, bên cạnh vẻ đẹp cổ điển và hiện đại, bài thơ còn chứa đựng một tâm trạng rất hiện đại của nhân vật:

"Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."


Tâm trạng của nhân vật không chỉ là sự lạc lõng giữa thiên nhiên mênh mông, mà còn là nỗi nhớ quê hương sâu sắc. Sự kết hợp giữa cảm xúc hiện đại và hình ảnh cổ điển đã tạo nên một bức tranh hoàn hảo về tâm trạng của nhân vật, vừa thống trị bởi sự cô đơn và u sầu, vừa chứa đựng nét đẹp và quyến rũ của thiên nhiên.

Tóm lại, bài thơ "Tràng Giang" không chỉ là một tác phẩm thơ với vẻ đẹp cổ điển và hiện đại, mà còn là một biểu tượng cho sự kết hợp giữa những yếu tố truyền thống và hiện đại trong nghệ thuật thơ. Đây là một tác phẩm vô cùng đặc biệt và đầy ý nghĩa trong văn học Việt Nam

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây