Soạn Ngữ văn 11 sách Kết nối, bài 3: Tôi có một ước mơ

Thứ hai - 22/04/2024 10:20
Soạn Ngữ văn 11 sách Kết nối, bài 3: Tôi có một ước mơ - Trang 79, ...

​ * Trước khi đọc

Câu hỏi 1 - Trang 79: Trong lịch sử của dân tộc, có những trường hợp một văn kiện chính trị lại trở thành một áng văn chương có sức lay động lớn. Bạn hãy kể tên một vài tác phẩm như vậy.
Trả lời:
Trong lịch sử của dân tộc, có những trường hợp một văn kiện chính trị lại trở thành một áng văn chương có sức lay động lớn. Một vài tác phẩm như:
- Tuyên ngôn độc lập – Hồ Chí Minh
- Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới – Vũ Khoan
- Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục – Hồ Chí Minh

Câu hỏi 2 - Trang 79: Nhiều nhân vật lịch sử đã thể hiện niềm ước mơ về hạnh phúc cho nhân dân, bình yên cho đất nước trong những câu thơ, câu văn hoặc những lời phát biểu đầy tâm huyết. Bạn hãy nêu một ví dụ cụ thể để chứng minh ý kiến trên.
Trả lời:
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là bài cáo nhằm bố cáo tới toàn thiên hạ rằng cuộc kháng chiến chống Minh của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, từ nay nước ta chấm dứt chiến tranh, bước vào thời kỳ xây dựng đất nước, hứa hẹn sẽ đem đến một cuộc sống ấm lo cho nhân dân. Bài cáo không chỉ vạch ra tội ác của giặc Minh, khẳng định cuộc kháng chiến bảo vệ bờ cõi của chúng ta là hoàn toàn đúng đắn mà còn thể hiện khát vọng, nỗi niềm mong muốn được độc lập, tự do cho nhân dân của một vị quan mang nặng tấm lòng vì dân, vì nước.
 

* Đọc văn bản

1. Xác định mục đích hướng tới của tác giả ở bài diễn văn này.
Trả lời:
Mục đích hướng tới của tác giả ở bài diễn văn này là lan tỏa sự nhận thức về tầm quan trọng của tự do đến mọi người.

2. Ý nghĩa của việc dẫn ra văn kiện lịch sử nổi tiếng của nước Mỹ là gì?
Trả lời:
Ý nghĩa của việc dẫn ra văn kiện lịch sử nổi tiếng nước Mỹ: đây là một minh chứng, bằng chứng sống về sự giải phóng nô lệ đã xảy ra cách đây một thế kỷ, nó đánh dấu kỷ nguyên được giải phóng của người da đen, họ đã được công nhận quyền bình đẳng cách đây hàng trăm năm nhưng sự thật thì ngược lại.

3. Theo dõi cách tác giả nói về thời điểm cần thiết để đòi công lí.
Trả lời:
Tác giả đánh thẳng vào tâm lí của tư bản đó là luôn chậm trễ trong việc đưa ra quyền tự do bằng những lời xoa dịu xa xỉ, ông nhấn mạnh “Ngay Bây Giờ” quyền công lí ấy cần phải được thực hiện bằng hành động cụ thể, phải thấy được kết quả thực tế.

4. Chú ý quan điểm đấu tranh của tác giả.
Trả lời:
Quan điểm đấu tranh của tác giả: Đừng tìm cách thỏa mãn cơn khát tự do bằng những chén hận thù và cay đắng. Chúng ta phải luôn luôn tranh đấu với nguyên tắc và lòng tự trọng cao. Chúng ta không được phép để cuộc phản kháng sáng tạo của chúng ta nhuốm màu bạo lực. Chúng ta phải tiến lên uy nghi với cả sức mạnh vật chất và tâm hồn.

5. Qua cách diễn đạt và đưa bằng chứng, tác giả đã thể hiện thái độ và tình cảm của mình như thế nào?
Trả lời:
Thái độ và tình cảm của tác giả: Sự phẫn nộ và tinh thần đấu tranh của tác giả trước những sự việc người da đen bị phân biệt đối xử. Từ đó, tác giả thể hiện niềm mong ước tự do bình đẳng cho người da đen.

6. Chú ý ngôn ngữ và giọng điệu của tác giả khi thể hiện niềm tin và ước mơ.
Trả lời:
Ngôn ngữ và giọng điệu của tác giả được đẩy lên cao trào bằng hàng loạt những lý lẽ thực tế tái hiện thực cảnh của người da đen hiện tại, họ vẫn phải sống trong khổ đau, đầy đọa và tuyệt vọng. Tác giả muốn đẩy lùi “bóng ma” đó bên trong con người họ bằng những lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực và khát khao cháy bỏng của mình qua câu “Tôi có một ước mơ”. Câu nói ấy cứ lặp đi lặp lại một cách tha thiết, cháy bỏng trong bài diễn văn của ông.

7. Biện pháp tu từ nào được tác giả sử dụng nhằm tác động mạnh đến người đọc, người nghe?
Trả lời:
Biện pháp tu từ được tác giả sử dụng là biện pháp điệp cấu trúc “Tôi mơ rằng…” và đằng sau đó chính là những tưởng tượng của tác giả về một thế giới khi mà công lý và sự tự do đã được thi hành, con người chung sống bình đẳng, hạnh phúc. Chế độ nô lệ bị xóa bỏ hoàn toàn, con người được tự do cả về vật chất lẫn tinh thần. Việc đưa ra những lời dự đoán như vậy nhằm tiếp thêm sức mạnh, động lực đấu tranh đến người nghe, đưa họ chìm đắm vào thế giới tự do mà tác giả tạo ra – đó là cái mà họ muốn, khát khao và cháy bỏng. Từ đó, thúc đẩy họ đấu tranh để biến giấc mơ ấy thành hiện thực, biến ngày ấy thành sự thật.

8. Bạn có ấn tượng, cảm xúc gì về đoạn kết?
Trả lời:
Đoạn kết đã khẳng định lại quan điểm của Mác-tin Lu-thơ Kinh là người da đen được đối xử bình đẳng với người da trắng. Tác giả dẫn ra câu hát “Tự do cuối cùng đã đến! Tự do cuối cùng đã đến! Tạ ơn Đức Chúa Đấng Tạo Hóa Toàn Năng, cuối cùng chúng ta đã được tự do!” để thể hiện ước mơ về quyền bình đẳng của người da đen.
 

* Sau khi đọc

Câu 1 - Trang 84: Vấn đề trọng tâm được đề cập ở văn bản Tôi có một ước mơ là gì?
Trả lời:
Vấn đề trọng tâm được đề cập ở văn bản Tôi có một ước mơ: khẳng định quyền bình đẳng của người da đen và kêu gọi sự đấu tranh giành quyền bình đẳng cho người da đen.

Câu 2 - Trang 84: Chỉ ra các luận điểm được tác giả triển khai trong văn bản.
Trả lời:
Các luận điểm được tác giả triển khai trong văn bản là:
- Lý do cho sự hiện diện của bài diễn văn ngày hôm nay.
- Quan điểm của tác giả về việc thực hiện quyền tự do, bình đẳng cho người da màu.
- Khẳng định quan điểm đấu tranh của mình
- Khát khao cháy bỏng mong muốn được tự do, bình đẳng của tác giả
- Tiếng hát trong niềm vui chiến thắng

Câu 3 - Trang 84: Phân tích cách tác giả dùng lí lẽ và bằng chứng để trình bày quan điểm của mình nhằm thuyết phục người nghe, người đọc.
Trả lời:
Những lí lẽ và bằng chứng tác giả sử dụng để trình bày quan điểm của mình được trình bày sắp xếp theo thứ tự của một quá trình đấu tranh, mang tính liên kết cao.​
Lí lẽ Bằng chứng
- Một trăm năm trước, Lin-cơn đã ký bản Tuyên ngôn Giải phóng nô lệ.
- Nhưng một trăm năm sau người da đen vẫn chưa được tự do.
Người da đen vẫn bị thít chặt trong gông cùm của luật cách li và xiềng xích của óc kì thị, vẫn phải sống trong một hoang đảo nghèo đói giữa đại dương bao la của sự phồn thịnh vật chất và vẫn phải sống mòn trong những góc khuất của xã hội Mỹ, thấy mình chỉ là kẻ lưu vong ngay trên quê hương mình
- Không được để cho cuộc phản kháng đầy sáng tạo sa vào bạo loạn.
- Tinh thần chiến đấu quật cường mới vừa trào sôi trong cộng đồng người da đen không được đẩy đến chỗ ngờ vực tất cả người da trắng.
Có rất nhiều người da trắng đã nhận ra vận mệnh của họ gắn liền với vận mệnh của người da đen, rằng tự do của họ không thể tách rời với tự so của người da đen.
Giấc mơ bắt nguồn sâu thẳm trừ trong giấc mơ của nước Mỹ (niềm tin rằng nước Mỹ luôn tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người, bất kể xuất thân, hoàn cảnh, địa vị xã hội,... Không bao giờ hài lòng khi:
- Người da đen vẫn còn là những nạn nhân câm lặng của vấn nạn bạo lực từ cảnh sát.
- Sau chặng đường dài mệt mỏi, không thể tìm được chốn nghỉ chân trong quán trọ ven xa lộ hay khách sạn trong thành phố.
- Con cái người da đen bị tước đoạt nhân phẩm và lòng tự trọng bởi những tấm biển đề "Chỉ dành cho người da trắng".
- Người da đen ở Mi-xi-xi-pi không có quyền bầu cử, người da đen ở Niu Oóc tin rằng đi bà cũng chẳng để làm gì.

Câu 4 - Trang 84: Trong đoạn kết của văn bản, tác giả đã bộc lộ ước mơ gì? Hình ảnh “tự do ngân vang từ những đỉnh đồi, […] ngọn núi” có ý nghĩa như thế nào trong việc thể hiện ý tưởng và cảm xúc của tác giả?
Trả lời:
Trong đoạn kết của văn bản, tác giả đã bộc lộ ước mơ về sự thành công của cuộc đấu tranh, người da màu được giải phóng, tự do và bình đẳng với những dân tộc khác. Hình ảnh ”tự do ngân vang từ những đỉnh đồi, […] ngọn núi" thể hiện quyền tự do, bình đẳng ấy của người da màu đã được nhân rộng theo chiều không gian địa lý. Làn sóng ấy cứ vậy mà nối tiếp nhau đến tận những vùng xa xôi kia, giải phóng cho cuộc sống đầy đau khổ của người da màu. Mong muốn của họ đã thành hiện thực, lời thỉnh cầu của họ đã được chúa lắng nghe và đáp lại. Còn niềm vui nào là to lớn hơn, mạnh mẽ hơn niềm vui tự do, bình đẳng này.

Câu 5 - Trang 84: Hãy chỉ ra và phân tích hiệu quả của các biện pháp tu từ (điệp ngữ, ẩn dụ,…) đã được tác giả sử dụng.
Trả lời:
- Biện pháp điệp ngữ: Tôi có một ước mơ, Chúng ta, Đây là lúc…
- Biện pháp ẩn dụ: Thoát khỏi bóng đêm và thung lũng hoang tàn của sự phân biệt chủng tộc, con đường chan hòa ánh nắng của sự bình đẳng về chủng tộc, vùng cát lún của sự bất công,…
=> Tác dụng: Biện pháp tu từ giúp nhấn mạnh thái độ và tình cảm của tác trước những sự việc người da đen bị đối xử phân biệt, bất công. Từ đó bày tỏ ước mơ về tự do và nhân quyền trước công chúng của tác giả, kêu gọi quyền bình đẳng cho những người da đen. Đồng thời làm tăng sức biểu đạt cho câu văn.

Câu 6 - Trang 84: Nhận xét về thái độ, tình cảm của tác giả đối với nước Mỹ qua văn bản.
Trả lời:
Đối với tác giả, Mỹ vẫn là một đất nước tốt đẹp bởi ông gắn giấc mơ của mình với giấc mơ của nước Mỹ. Ông hy vọng chính quyền người da trắng có thể hiểu và đáp lại lời nguyện cầu của ông. Ông tin tưởng vào sự nhận thức, hiểu đạo lý của chính quyền da trắng sẽ giúp người da đen thoát khỏi bể khổ. Đó là sự tôn trọng, đức tin chảy trong người ông về một đất nước đã cưu mang hàng trăm, hàng triệu đồng bào người da màu của ông. 

Câu 7 - Trang 84: Theo bạn, quan điểm và ước mơ của tác giả được thể hiện trong văn bản đến nay còn có ý nghĩa không? Hãy lí giải ý kiến của bạn.
Trả lời:
Theo bạn, quan điểm và ước mơ của tác giả được thể hiện trong văn bản đến nay vẫn còn rất ý nghĩa. Mặc dù hiện nay đất nước ngày càng tôn trọng sự tự do và bình đẳng nhưng mà đâu đó, góc tối về sự phân biệt chủng tộc vẫn còn tồn tại. Ví dụ như sự kỳ thị của những người Mỹ da trắng với cộng đồng người Mỹ gốc Phi, tình trạng phân biệt đối xử của các nhân viên thực thi pháp luật da trắng với công dân da màu. Các vụ liên tiếp xảy ra gần đây với mức độ nguy hiểm đã gióng lên hồi chuông báo động về nạn phân biệt chủng tộc có xu hướng gia tăng ở Mỹ. Tuy nhiên, từ đó đến nay, vẫn còn rất nhiều câu hỏi đặt ra xung quanh vấn đề bình đẳng xã hội tại Mỹ khi nỗi ám ảnh chủ nghĩa phân biệt chủng tộc vẫn còn đang len lỏi trong mọi mặt của đời sống xã hội.

Câu 8 - Trang 84: Từ bài diễn văn Tôi có một ước mơ, bạn rút ra được bài học gì trong việc tạo lập một văn bản nghị luận giàu sức thuyết phục?
Trả lời:
Từ bài diễn văn Tôi có một ước mơ, bài học được rút ra trong việc tạo lập một văn bản nghị luận giàu sức thuyết phục là:
- Tạo lập văn bản nghị luận gồm nhiều thành tố: luận đề, luận điểm, lí lẽ, bằng chứng,…. Các thành tố này phải được tổ chức thành một chỉnh thể, có quan hệ chặt chẽ với nhau, thuyết phục người đọc.
- Biết vận dụng kết hợp đa dạng các phương thức biểu đạt và biện pháp tu từ.
 

* Kết nối đọc – viết

Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày điều bạn thấy tâm đắc khi đọc văn bản Tôi có một ước mơ.
Đoạn văn tham khảo
Văn bản Tôi có một ước mơ – Mác-tin Lu-thơ Kinh đã để lại ấn tượng sâu sắc với người đọc qua thông điệp về ước mơ được sống bình đẳng, tự do của người da đen nói riêng và của toàn thể xã hội nói chung. Mỗi một quốc gia hay bất cứ đâu trên thế giới con người đều mưu cầu sự tự do. Sống được tự do mới là sống, có tự do con người mới có thể phát triển bản thân, làm những thứ mình thích, cống hiến những điều tốt đẹp cho xã hội. Nếu không có tự do, con người sẽ không có được hạnh phúc, sẽ phải sống trong nỗi thống khổ của cảnh bị đàn áp, áp bức, cuộc sống sẽ chìm trong lầm than, đau khổ. Tự do trong bất cứ thời đại nào, ở bất cứ quốc gia nào cũng đều rất quan trọng và là mơ ước của bao người. Hãy trân trọng sự tự do mình đang có và nỗ lực nhiều hơn nữa để cống hiến cho xã hội những điều tốt đẹp hơn.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây