Hướng dẫn học Văn 8, Ông đồ

Chủ nhật - 22/09/2019 13:26
Hướng dẫn học Văn 8, Ông đồ
Ông đồ
(Vũ Đình Liên)
A. TÌM HIỂU CHUNG
I. Tác giả
Nhà thơ Vũ Đình Liên sinh ngày 12 tháng 11 năm 1913, quê ở Châu Khê, Bình Giang, Hải Dương, mất ngày 18 tháng 1 năm 1996.
Vũ Đình Liên nổi tiếng với bài thơ ông đồ từ phong trào Thơ mới. Nhiều năm ông làm nghề dạy học. Từng là Chủ nhiệm khoa tiếng Pháp, Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ, là thành viên nhóm văn học Lê Quý Đôn (gồm: Lê Thước, Trương Chính, Lê Trí Viễn...).
Nhà thơ Vũ Đình Liên đã xuất bản: Đôi mắt (thơ, 1957); Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (nghiên cứu, 1957); Nguyễn Đình Chiểu (nghiên cứu, 1957); Thơ Bô-đơ-le (dịch thuật, 1995).
Tập thơ Bô-đơ-le - công trình 40 năm lao động dịch thuật say mê và nghiên cứu của ông đã được tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam (1996).

II. Thể loại
Ông đồ là một trong những bài thơ hay nhất, nổi tiếng nhất của Vũ Đình Liên và cũng là của phong trào Thơ mới. Sử dụng thể thơ năm chữ và ngôn ngữ gợi cảm, giàu tính tạo hình, Vũ Đình Liên đã miêu tả ông đồ ngồi viết chữ thuê trên phố ngày Tết, từ lúc ông còn đắc chí đến lúc hình ảnh ông mờ dần rồi xa khuất giữa bức tranh xuân.

III. Bố cục
Có thể chia bài thơ thành ba phần:
- Hai khổ đầu: hình ảnh ông đồ thời đắc ý.
- Hai khổ kế tiếp: hình ảnh ông đồ thời tàn.
- Khổ thơ cuối: nỗi buồn sâu lắng của nhà thơ.

B. GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
I. Nội dung
1. Trong hai khổ thơ đầu, hình ảnh ông đồ viết chữ nho ngày Tết là một hình ảnh đẹp. Đấy là cái thời đắc ý của ông.
Ông xuất hiện cùng hoa đào, với mực tàu giấy đỏ. Ông đem lại niềm vui cho mọi người khi viết câu đối Tết. Bao nhiêu người nhờ đến ông. Bao nhiêu người tấm tắc khen ngợi ông. Ông viết câu đối mà như người biểu diễn thư pháp:
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
Khổ thơ thứ ba và thứ tư vẫn diễn tả không gian ấy, thời gian ấy. Song là một không khí khác. Nhưng mỗi năm mỗi vắng. Không phải là vắng ngắt ngay lập tức, mà theo thời gian. Người cần đến ông cứ giảm dần. Và bây giờ thì hầu như không thấy họ: Người thuê viết nay đâu? Giấy cũng buồn vì cảnh này, mực cũng sầu vì không được dùng vào việc viết. Ông đồ vẫn có mặt, nhưng người ta đã không nhận ra ông. Người ta chẳng còn chú ý đến ông nữa. Bởi thế mà ông như nhoà lẫn trong lá vàng và mưa bụi. Sự khác nhau của hai hình ảnh ông đồ chủ yếu ở vị trí của ông với công chúng. Trước ông ở trung tâm của sự chú ý. Nay ông ra ngoài rìa của sự chú ý, gần như bị lãng quên.
Sự khác nhau này gợi cho người đọc cảm xúc thương cảm cho ông đồ, ông đang bị gạt ra rìa cuộc sống, ông đang bị lãng quên cùng với những gì gắn với chữ Hán, với tâm lí chuộng thú chơi câu đối một thời. Hai câu thơ:
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay
không chỉ là hai câu thơ tả cảnh, đó là hai câu thơ tả tâm trạng, tả cảnh ngộ của ông đổ. Lá vàng rơi, một biểu hiện của sự tàn úa. Lại kèm với mưa bụi bay. Lạnh lẽo và buồn thảm.

2. Tâm tư của nhà thơ thể hiên qua bài thơ một cách kín đáo. Tác giả đã mô tả hai cảnh đối lập và gợi niềm thương cảm ông đồ một cách gián tiếp. Chỉ đến phần cuối bài thơ, khi không còn thấy ông đồ. tác giả mới thốt lên:
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Không chỉ cảm thương cho ông đồ, mà còn là cảm thương một lớp người đã trở thành quá khứ. Hơn thế nữa, sự hoài cổ còn là hoài niệm một vẻ đẹp văn hoá gắn với những giá trị tinh thần truyền thống. Chính vì thế mà bài thơ có sức lay động sâu xa.

3. Không chỉ hay ở nội dung hoài niệm, bài thơ còn hay ở nghệ thuật. Trước hết là dựng cảnh tương phản. Một bên tấp nập đông vui, một bên buồn bã, hiu hắt. một bên nét chữ cũng như bay múa: phượng múa, rồng bay; bên kia cả giấy cũng buồn, cả mực cũng sầu, thêm nữa lại kèm lá vàng, mưa bụi
Bài thơ được cấu trúc theo kiểu kết câu đau cuối tương ứng. Cũng là thời gian ngày áp Tết, cũng là không gian mùa xuân, cũng vẫn có hoa đào nở. Nhưng hình ảnh ông đồ thì cứ nhạt nhòa dần. Cuối cùng thì không thấy ông đồ nữa. Ông đã thành "ông đồ xưa". Không phải là ông đồ cũ. Ông đã thành xưa, như đã không còn tồn tại nữa.
Bài thơ làm theo thể năm chữ, thể thơ ngũ ngôn vốn có từ lâu. Lời lẽ của bài thơ dung dị, không có gì tân kì. Nhưng hình ảnh thơ gợi cảm. Hình ảnh:
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay
thật sinh động. Những hình ảnh:
             - Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
                                           - Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay
không phải chỉ là hình ảnh thiên nhiên, mà là thiên nhiên nhuốm đầy tâm trạng.

4. Những câu thơ:
-Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...
                    - Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay
là nhưng câu thơ không chỉ tả cảnh. Tác giả đã dùng biện pháp nhân hoá làm cho giấy, mực, những vật vô tri như cũng biết sầu buồn. Phải chăng, cái buồn của bản thân ông đồ cũng làm lây nhiễm sang cảnh vật? Lá vàng, mưa bụi thật là buồn. Lá lại rơi trên giấy không thấm, mưa bụi lại làm cho cảnh vật như nhòe mờ. Ông đồ đã bị lãng quên, càng bị khuất lấp. Những câu thơ như thể đã làm cho bài thơ tạo được cho người đọc ấn tượng và ám ảnh sâu sắc.
 
II. Nghệ thuật
Bài thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn với những lời kể, lời miêu tả xem triết lí sâu sắc. Kết cấu bài thơ giản dị mà chặt chẽ, có nghệ thuật. Ngôn ngữ bài thơ rất trong sáng, giản dị mà hàm súc, gợi dư ba.

III. Ý nghĩa
Qua việc miêu tả tình cảnh đáng thương của ông đồ, bài thơ thể hiện niềm thương cảm chân thành đối với một lớp người đang tàn tạ. Bài thơ cũng gợi trong lòng bao người nỗi nhớ tiếc cảnh cũ, người xưa; nhớ tiếc về một nét văn hoá xưa của dân tộc.
 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây