Hướng dẫn học Văn 8, Đập đá ở Côn Lôn

Thứ bảy - 21/09/2019 05:51
Hướng dẫn học Văn 8, Đập đá ở Côn Lôn
Đập đá ở Côn Lôn
(Phan Châu Trinh)
A. TÌM HIỂU CHUNG
I. Tác giả
Phan Châu Trinh (1872 - 1926) hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu Hi Mã, quê ở làng Tây Lộc, huyện Hà Đông (nay là thôn Tây Hồ, xã Tam Phước, huyện Tam Kì), Tỉnh Quảng Nam. Ông đổ Phó bảng, từng được bổ dụng một chức quan nhưng rồi áo quan để chuyên tâm vào sự nghiệp cứu nước - một sự nghiệp tâm huyết, sôi nổi và đa dạng của ông trong những năm đầu thế kỉ XX. ông nổi tiếng là người giỏi biện luận và có tài văn chương. Thơ văn của ông thấm đẫm lòng yêu nước và tinh thần dân chủ. Tác phẩm chính: Tây Hồ thi tập, Tỉnh quốc hồn ca, Xăng-tê thi tập (các tập thơ), Giai nhân kì ngộ (truyện thơ dịch).

II. Thể loại
Cũng giống bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác, bài thơ này cũng được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.

III. Bố cục
Tìm hiểu bài thơ theo bố cục: đề, thực, luận, kết.

B. GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
I. Nội dung
1. Câu mở đầu, tác giả phác hoạ bối cảnh không gian, gợi mở âm hưởng hùng tráng bằng tư thế hiên ngang, sừng sững của phận "làm trai" đầu đội trời, chân đạp đất kiêu hùng. Dân gian từng có câu: "'Làm; trai cho đáng nên trai". Phan Bội Châu cũng đề cao chí hướng làm trai: "Đã sinh làm trai thì cũng phải khác đời"... Chỉ thấy quan niệm về chí trai, làm trai có mạch nguồn trong quan niệm nhân sinh truyền thống. Trong câu thơ của Phan Châu Trinh quan niệm ấy được khẳng định trong một bối cảnh cụ thể: "... đứng giữa đất Côn Lôn” là "đứng giữa" biển - trời đất, thật kiêu hãnh, đường hoàng, đúng là tư thế của người làm chủ giang sơn. Ba câu thơ tiếp theo, qua những hình ảnh chân thực diễn tả công việc nặng nhọc (khai thác đá) tác giả đã khắc họa thành những hình ảnh biểu trung cho tầm vóc sức mạnh dời non lấp bể, kinh thiên động địa của nhân vật trữ tình. Những hành động mạnh mẽ cho phép ta hình dung ra hình ảnh người dũng sĩ với sức vốc thần kì đang xung trận: "xách búa", "ra tay"; và “lừng lẫy” những chiến công "lở núi non" "đánh tan năm bảy đống", "đập bể mấy tràm hòn". Những từ ngữ cực tả sức mạnh dũng mãnh đã làm nổi bật hình tượng con người trong tư thế ngạo nghễ, lớn ngang tầm vũ trụ. Giữa không gian biển trời bao la, sừng sững một tượng đài kết bằng những hình khối phi thường.

2. Bốn câu thơ đầu vừa miêu tả chân thực công việc lao động nặng nhọc của những người từ Côn Đảo, vừa khắc họa nổi bật tầm vóc của người anh hùng có những hành động phi thường. Bốn câu thơ khắc họa hình ảnh người từ cách mạng đầy ấn tượng trong tư thể hiện ngang ngạo nghễ. Một công việc lao động cưỡng bức hết sức nặng nhọc lại trở thành một cuộc chinh phục thiên nhiên dũng mãnh của con người có sức mạnh như thần thánh. Giọng thơ thể hiện khẩu khí ngang tàng, ngạo nghễ của con người dám coi thường mọi gian nan thử thách và sự chà đạp trong cuộc sống.

3. Bốn câu cuối bộc lộ trực tiếp cảm xúc và suy nghĩ của người anh hùng "Thân sành sỏi", "dạ sắt son" sẽ bền bỉ trụ lại được cùng "tháng ngày", "mưa nắng". Thế đối lập ở câu 5 - 6 thể hiện sự kiên tâm, vững trí của nhà cách mạng dù trong bất kì hoàn cảnh khắc nghiệt nào. Tấm lòng thuỷ chung, son sắt "mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen" (Nguyễn Trãi) kia cũng là sự kế thừa truyền thống anh hùng bất khuất đã được khẳng định trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Vững vàng đến "trơ gan cùng tuế nguyệt", đến ngạo nghễ đã là đạc sống, phẩm cách của người chiến sĩ chẳng tiếc thân mình cho sự nghiệp chung Phan Châu Trinh xuất thân nho học, ở những vần thơ này ta thấy bản lĩnh của nhà nho đã hoà thấm thuần thục với tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng. Trong bối cảnh đầy những gian nan, thử thách hồi đầu thế kỉ XX người chiến sĩ dám dấn thân vì giang sơn xã tắc cũng phải là những con người bất chấp hi sinh, nguy khó, biết quên thân mình. Có khi còn phải biết gồng mình lên, chiến thắng hoàn cảnh bằng ý chí. Cảm hứng lãng mạn hào hùng tiếp tục được đẩy lên đỉnh điểm ở hai câu thơ kết với hình ảnh thơ mang đậm chất sử thi. Hai chữ "vá trời" lấy từ tích Nữ Oa vá trời. Tầm vóc, sức mạnh ở đây đã được thi vị hoá đến mức thần kì, giống như bà Nữ Oa trong truyền thuyết đội đá vá trời. Hình ảnh "Những kẻ vá trời" vừa thực vừa bay bổng, khoa trương. Thực ở mức liên hệ với hình ảnh những người tù lao động khổ sai đập đá, làm lở núi non đã được miêu tả ở 4 câu thơ đầu. Bay bổng, khoa trương ở lối ví với nhân vật trong thần tích. Hai câu thơ cuối này gợi tả sự đối lập giữa cái lớn lao, kì vĩ (vá trời) với thực tế gian nan chỉ là "việc con con". Sự đối lập ấy là kết quả của một ý chí sắt đá, niềm tin lớn vào sự nghiệp chính nghĩa, kẻ vá trời bằng sức mạnh đội đá vá trời có thể đè bẹp mọi trở ngại gian nan. Thực tế thì những khó khăn tác giả đang phải đương đầu không "con con" chút nào nhưng chỉ có bằng cách ấy, bằng ý chí quật cường tích tụ từ nguồn mạch dân tộc người chiến sĩ mới có thể tiếp tục được con đường dằng dặc chông gai trước mắt. Đó cũng là một cuộc chiến thắng chính mình.

II. Nghệ thuật
Bài thơ được viết bằng bút pháp lãng mạn. Giọng điệu nổi bật của bài thơ là giọng ngang tàng, hào hùng, ngạo nghễ.

III. Ý nghĩa
Bài thơ giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp lẫm liệt, ngang tàng của người anh hùng cứu nước. Dù gặp bước gian nan, thế nhưng cái chí của người anh hùng vẫn ngạo nghễ, hiên ngang.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây