Học và ôn luyện Ngữ văn nâng cao 9: Chị em Thuý Kiều (trích Truyện Kiều)

Thứ năm - 05/09/2019 12:08
Học và ôn luyện Ngữ văn nâng cao 9: Chị em Thuý Kiều (trích Truyện Kiều)
Bài đọc tham khảo
Thanh minh trong tiết tháng ba
Một cuộc du xuân - đây là sự kiện mở màn cho cuộc đời thiếu nữ phong lưu và xuân sắc của Thúy Kiều. Cuộc du xuân mở đầu cho phần thứ nhất trong hệ thống ba biến cố thông thường của cốt truyện cổ điển: “Gặp gỡ - Tai biến - Đoàn tụ”. Chúng ta sẽ bắt gặp ở đoạn thơ này một bức tranh thiên nhiên sáng tươi xinh đẹp và hội đạp thanh tưng bừng náo nhiệt. Nhưng cũng chính ở phần “Gặp gỡ” mà thông thường sẽ chưa có bóng dáng của tai họa - lại đã xuất hiện một nấm mồ, một cuộc đời và một nét cảm xưa có màu sắc bi kịch vế số phận của hồng nhan.

1. Một bức tranh thiên nhiên và một khung cảnh lễ hội.
Mặc dầu câu thơ thứ hai trong đoạn có thể đưa đến một liên tưởng, một ấn tượng nào đó về thời gian tuổi thọ, nhưng chủ yếu toàn bộ sáu câu thơ đầu tiên là một bức tranh thiên nhiên rực rỡ ánh sáng và màu sắc trong trẻo của bầu trời “thanh minh”, của hình ảnh đàn chim én bay qua bay lại linh hoạt, nhịp nhàng, của nội cỏ mênh mông một màu tươi sáng pha hòa giữa màu xanh lá cây và màu xanh cỏ non và của một cành lê thanh tú “trắng điểm một vài bông hoa”...
Con người trong tiết thanh minh đi sửa sang phần mộ và tìm đến những bóng hình của quá khứ - đó là lễ nghi truyền thống. Nguyễn Du đã chứng tỏ tài năng bậc thầy về ngôn ngữ ngay ở câu thơ tự sự ngắn gọn về một sinh hoạt thông thường: “Lễ là
tảo mộ, hội là đạp thanh”. Nghi lễ vào hội hè có thể có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, nhưng đó vẫn là hai hình thức sinh hoạt văn hóa có khác biệt: Hội đạp thanh là cuộc vui chơi trên dặm cỏ xanh của lứa tuổi xuân xanh... Hội đạp thanh là một cuộc sống hiện tại và có thể tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau... Trong tiết thanh minh, có hồi ức và tưởng niệm quá khứ (“lễ là tảo mộ”) nhưng cũng có khát khao và hoài vọng nhìn về phía trước của cuộc đời (“hội là đạp thanh”).
Sau câu thơ mở đầu là một bức tranh “đượm vẻ thiên nhiên” diễm lệ và tươi sáng. Vẫn chỉ là ngòi bút phác họa, chấm phá nhưng chủ yếu nhà thơ đã sử dụng từ ngữ dân tộc (trong đó có những câu thơ có thể gọi là “thuần Nôm”), đã lựa chọn những đường nét, những hình ảnh, những màu sắc đưa vào một tổng thể cấu trúc hội họa hài hòa giữa bức phông màu thiên thanh và những cánh chim én đậm màu sắc, sắc nét. giữa cành lê trong trắng trên nền cỏ mùa xuân tươi xanh...
Tiếp theo hình tượng thiên nhiên là ngôn ngữ tự sự về cảnh lễ hội. Một hệ thống danh từ và động từ kép: “gần xa, yến anh, chị em, tài tử, giai nhân... nô nức, sắm sửa, dập dìu, ngổn ngang” biểu hiện những hoạt động nhộn nhịp, náo nhiệt, tươi vui của mọi người và đây lại là một dòng những con người trẻ tuổi “nam thanh nữ tú” với ngựa xe, trang phục đông đúc, chen chúc... Lễ viếng thăm phần mộ tưng bừng, náo nhiệt, xen kẽ ngày hội ngộ của tuổi thanh xuân đã hoàn chỉnh bức tranh mùa xuân khi cỏ cây hoa lá vẫn đang độ tươi xanh rực rỡ, khi không trung và ánh sáng đã trở nên trong trẻo và ấm áp hơn.
Dường như ánh sáng mùa xuân, niềm vui lễ hội đang bao trùm tất cả nhân gian (trong đó có ba chị em họ Vương). Thông qua sinh hoạt du xuân của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã khắc hoạ hình ảnh một truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa và một cung cách sống của gia đình viên ngoại họ Vương.

2. Một nấm mồ vô chủ và một số kiếp hồng nhan
Thời gian đã chuyển qua, bóng dương chênh chếch xế chiều “Tà tà bóng ngả về tây”. Nhưng đây không chỉ là hoàng hôn của cảnh vật, dường như con người cũng chìm trong một cảm xúc bâng khuâng khó tả. Trong văn học trung đại, chiều tà thường gợi lên ý niệm nhớ nhung, hoài niệm hoặc tàn tạ thê lương “Quán thu phong đứng vũ tà huy - Ai đem nhân ảnh nhuộm màu tà dương...” (Cung oán ngâm khúc). Cuộc du xuân ngoạn cảnh đã xong, đã chấm dứt lễ hội tưng bừng náo nhiệt... Tâm hồn con người dường như cũng “chuyển điệu” theo sự thay đổi của thời gian và tàn cuộc thanh minh để mang chút bâng khuâng thơ thẩn trên dặm đường về... Thời gian và tâm trạng đó báo hiệu sự biến đổi trong không gian. Ở đây chỉ có ba hình ảnh để tả phong cảnh: một dòng suối nhỏ, chiếc cầu nhỏ và một nấm mồ nhỏ... Cũng vẫn chỉ là ngòi bút phác hoạ qua sáu câu thơ. Đối lập với cảnh đông đúc ồn ào của lễ hội ở trên là một không gian cô tịch với dòng suối nhỏ uốn khúc “nao nao” nhẹ nhàng, dòng suối bé nhỏ tội nghiệp đến mức chí cần một “nhịp cầu nho nhỏ” bắc ngang là đủ để con người đi qua... Miêu tả dòng suối hay là miêu tả nỗi niềm nao nao xao động của lòng người? Giữa cảnh vật và lòng người dường như không có đường viền... Cũng như vây, Nguyễn Du dùng những trạng từ kép: “sè sè, dàu dàu...” nấm đất thấp bé gợi hình ảnh một số phận nhỏ nhoi. Và riêng ngọn cỏ ở đây không hề mang một màu “xanh tận chân trời” như trên, mà lại chen màu vàng úa và “đàu dàu” héo hon, ủ rũ... Những từ ngữ “thanh
thanh, nao nao, dàu dàu...” biểu đạt sắc thái cảnh vật nhưng đồng thời cũng bộc lộ tâm trạng của con người.
Một khung cảnh hoàng hôn báo hiệu ngày tàn đối lập với thiên nhiên trong tiết thanh minh tươi sáng, một nấm mồ cô quạnh thê lương đối lập với lễ tảo mộ đông đúc náo nhiệt... Một bức tranh đối lập khiến con người đa cảm phải thốt lên một câu hỏi ngạc nhiên (Rằng: “Sao trong tiết thanh minh, Mà đáy hương khói vắng tanh thế mà?”). Khung cảnh hoang vắng thê lương ấy minh chứng một câu chuyện thương tâm về một con người, một cuộc đời và một kết thúc đã bị cuộc đời lãng quên...
                                                                   G.s Đặng Thanh Lê
                                                        (Trích “Giảng văn Truyện Kiều)
Cảnh chia tay giữa “người quốc sắc, kẻ thiên tài” trong hội Đạp thanh chiêu xuân ấy được thi hào Nguyễn Du viết:
“... Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha...”
Hãy phân tích hai câu thơ trên và phát biểu ý kiến của em về nghệ thuật tả cảnh trong “Truyện Kiều
Truyện Kiều” của thi hào dân tộc Nguyễn Du là một công trình nghệ thuật bằng thơ lục bát chứa chan tinh thần nhân đạo. Thiên diễm tình của “người quốc sắc, kẻ thiên tài” với bao tình tiết đẹp đẽ, cảm động gieo vào lòng ta bao ấn tượng khó phai mờ. Có không ít vần thơ, câu thơ tả cảnh lung linh sắc màu chẳng khác nào mảnh trời xanh rủ bóng xuống hồn ta trên những nẻo đường nắng lửa. Thiên nhiên trong “Truyện Kiều” đẹp lắm, đọc qua một lần đâu dễ quên? Và đây là hai câu Kiều cho ta nhiều thú vị văn chương:
“...Dưới cầu nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiêu thướt tha”.
Cái buổi chiều tà thanh minh ấy, hình ảnh “Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa” đã làm cho Kim Trọng hào hoa “Chập chờn cơn tỉnh cơn mê”... Cuộc chia tay không một lời hẹn ước mà sao đằm thắm nghĩa tình? “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” (Thế Lữ) đã được thi hào Nguyễn Du ghi lại một cách thần tình:
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo...”
Rất tế nhị và thanh tao, cái giây phút rạo rực trái tim Kim - Kiều dự cảm một tình yêu đắm say chớm nở, khiến Nguyễn Du đồng cảm viết nên những vần thơ tình tuyệt bút.
Cuộc chia tay trong hội Đạp thanh đâu dễ quên? Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du nâng cao cảm xúc nghệ thuật. Thời gian trôi nhanh, không gian trở nên trong sáng, tĩnh lặng. Hình ảnh chọn lọc, cụ thể nhưng xiết bao gợi cảm: chiếc cầu nho nhỏ xinh xinh, dòng nước trong veo lững lờ, cành liễu thướt tha trong bóng chiều nhạt ... Cảnh đơn sơ mà xinh xắn như bức tranh thuỷ mặc - chứng nhân cho một mối tình đẹp đang nảy nở.
Cảnh vật đẹp và thơ mộng quá! Thiên nhiên như mang nặng tình người. Dòng nước trong veo chảy dưới cầu như tình cảm trong sáng của lòng người. Nhà thơ không hề nói đến gió mà có gió thổi:
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”. 
Hình ảnh ẩn dụ “rơ liễu” và từ láy “thướt tha” gợi tả lá liễu, cành liễu dài và mềm bay trước làn gió nhẹ, mang theo bao tình ý xôn xao. Ngoại cảnh hoà nhập trong tâm cảnh, biểu hiện nỗi lòng bâng khuâng xao xuyến, thiết tha của Thúy Kiều và Kim Trọng.
Hai câu thơ lục bát được viết theo cấu trúc “bình đối” không gian hai chiêu: “dưới cầu” và “bên cầu”, có màu xanh “trong veo” của dòng nước chảy, có dáng liễu, “tơ liễu” bay “thướt tha” trong bóng chiều xuân. Cảnh vật cân xứng, hài hoà và rất hữu tình. Hai câu thơ lục bát tả cảnh đẹp như một bức tranh của một danh hoạ được vẽ bằng những đường nét tinh tế, tươi tắn, gam màu nhẹ hoà hợp tạo cảm xúc thơ mộng: màu xanh của dòng nước trong veo, màu vàng nhạt của bóng chiều tà mùa xuân, màu xanh lục của liễu, đường nét của “Chiếc cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”, của dòng nước “nao nao” uốn lượn quanh co ... Ngòi bút của thi nhân tả ít mà gợi nhiều. Cảnh vật thanh tao, sống động, ấp ủ hồn người. Ngoại cảnh như đang xao xuyến rung động trước nỗi niềm bâng khuâng, man mác của lứa đôi. Cảnh vật in dấu tâm sự và tình cảm; một tình yêu đẹp mới chớm nở trong lòng “Người quốc sắc, kẻ thiên tài”.
Trong “Truyện Kiều”, tả cảnh cũng như tả người, Nguyễn Du vận dụng sáng tạo thi pháp cổ truyền thống, tả ít mà gợi nhiều. Chỉ một vài nét chấm phá mà nhà thơ vẽ lên một bức tranh thiên nhiên chứa chan thi vị. Bao trùm lên tất cả là bút pháp ước lệ tượng trưng. Người thì ngư, tiều, canh, mục. Cảnh thì có phong, hoa, tuyết, nguyệt, cỏ cây hoa lá thì sen, cúc, trúc, mai, v.v... Tuy nhiên, thi hào với ngòi bút thiên tài và tâm hồn nghệ sĩ đã để lại ở câu thơ, vần thơ những dấu ấn đậm đà.
Đọc “Truyện Kiều”, ta nhớ mãi bức tranh tứ bình về trăng, hoa, gió, tuyết:
“Đòi phen gió tựa, hoa kê
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu”.
Ta quên sao được sự chuyển vần của bốn mùa trong nỗi buồn đau nặng trĩu lòng người:
Sen tàn cúc lại nở hoa,
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”.
Thiên nhiên trong “Truyện Kiều” rất đỗi quen thuộc với tâm hồn con người Việt Nam. Nhà thơ như một họa sĩ tài ba phối sắc, tạo hình, dựng cảnh ... đều thần tình, đem đến cho người đọc nhiều rung cảm. Mùa xuân với “Cỏ non xanh tận chân trời - Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Mùa hè với tiếng chim quyên và hoa lựu đỏ:
Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông”.
Mùa thu với sắc màu rực rỡ:
“Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”.
Những hình ảnh “Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”, những nhánh liễu mềm “Lơ thơ tơ liễu buông mành”, những con đường “Lối mòn cỏ nhợt màu sương”, ... ta vẫn thấy quanh ta, thân thiết, gần gũi. Ta vốn mê say mảnh trăng xứ sở trong ca dao, dân ca, cho nên ta yêu thêm vầng trăng li biệt trong “Truyện Kiều”:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”. 
Có lúc thi hào dựa vào thi liệu cổ Trung Hoa rồi chắt lọc, tái tạo, câu thơ Kiều trở nên cổ kính, trang nhã, cảnh sắc lại đậm đà một hồn quê:
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”.
Nguyễn Du đã từng nói: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Thiên nhiên trong “Truyện Kiều” không chỉ là cái nền, cái khung cảnh cho nhân vật, mà còn biểu hiện tâm trạng nhân vật. Ngoại cảnh hoà hợp với tâm cảnh. Tám câu thơ tả cảnh “Trước lầu Ngưng Bích” là những vần thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt diệu. Mỗi từ ngữ, mỗi hình ảnh miêu tả thiên nhiên trong đoạn thơ đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng và một hoán dụ về số phận người thiếu nữ tài sắc mà bạc mệnh:
“...Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Nguyễn Du đã dành cho thiên nhiên một tình yêu nồng hậu với tất cả trái tim đa cảm của người nghệ sĩ thiên tài. Thi hào có biệt tài nắm bắt được cái “thần” tiêu biểu nhất của mỗi cảnh vật riêng biệt, và chỉ vài nét phác họa, bức tranh thiên nhiên hiện ra hữu tình, hấp dẫn kì lạ:
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng”.
Trong “Truyện Kiều”, thiên nhiên cũng là một “nhân vật” trữ tình. Mỗi làn thiên nhiên xuất hiện, câu thơ trở nên lung linh, huyền diệu. Nó phản ánh một hồn thơ tuyệt đẹp, một nghệ thuật tả cảnh điêu luyện vô song. Đẹp thay những câu thơ Kiều nói về thiên nhiên. Qua những câu thơ ấy, ta yêu thêm tiếng Việt và thơ ca dân tộc. Đến với những vần thơ Kiều, tâm hồn người đọc rộng mở, thắm tươi mãi tình yêu tạo vật, yêu cảnh sắc bốn mùa của đất nước quê hương
“Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn”.
                                                                                  Chế Lan Viên

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây