Học và ôn luyện Ngữ văn nâng cao 9: Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh)

Thứ năm - 05/09/2019 12:05
Học và ôn luyện Ngữ văn nâng cao 9: Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh)
Truyện Kiều
(Đoạn trường tân thanh)
                                     Nguyễn Du
I. Đọc - hiểu
l. Tác giả.
Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc thời Lê - Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm từng làm Tể tướng; anh là Nguyễn Khản đỗ Tiến sĩ, làm đại quan trong phủ Chúa, được Trịnh Sâm trọng vọng. Nguyễn Du chỉ đỗ 'Tam trường, nhưng văn chương lỏi lạc”.
Quê hương ông vẫn lưu truyền câu ca:
“Bao giờ Ngàn Hống hết cây,
Sông Rum hết nước, họ này hết quan”.
Nguyễn Du chỉ làm một chức quan nhỏ dưới thời Lê - Trịnh. Dưới thời Tây Sơn, Nguyễn Du lúc thì dạt về quê vợ ở Quỳnh Hải, Thái Bình; lúc thì lặn lội về xứ Hồng Lĩnh quê nhà. Ông trải qua “mười năm gió bụi”, có lúc ốm đau không có thuốc, mái tóc sớm bạc. Ông tự xưng là “Hồng Sơn liệp hộ” (người đi săn ở núi Hồng), “Nam Hải điếu đồ” (Người câu cá ở biển Nam Hải):
Hồng Sơn cao ngất mấy tầng,
Đò Cài mấy trượng là lòng bấy nhiêu!”. 
Năm 1802, Gia Long triệu Nguyễn Du ra làm quan. Chỉ trong vòng hơn 10 năm, ông đã bước lên đỉnh cao danh vọng: làm Chánh sứ sang Trung Quốc (1813-1814), giữ chức Hữu Tham tri bộ Lễ. Năm 1820, lần thứ hai, ông lại được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc, nhưng chưa kịp đi thì bị bệnh, qua đời.
Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du vô cùng rạng rỡ, để lại nhiều thơ chữ Hán và chữ Nôm. về chữ Hán có 3 tập thơ:
- Nam trung tạp ngâm.
- Bắc hành tạp lục.
- Thanh Hiên thi tập.
Về thơ chữ Nôm có:
- Truyện Kiều.
- Văn chiêu hồn.
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, niềm tự hào của nhân dân ta, đất nước ta:
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”.
                                                        (“Kính gửi Cụ Nguyễn Du” - Tố Hữu)
2. Nguồn gốc và giá trị “Truyện Kiều”
a. Nguồn gốc:
Nguyễn Du đã lấy cốt truyện từ “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc mà sáng tạo ra “Truyện Kiều” bằng thơ lục bát dài 3254 câu thơ, đậm đà màu sắc Việt Nam.
b. Giá trị:
- “Truyện Kiều” thấm nhuần tinh thần nhân đạo cao đẹp và có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc.
- “Truyện Kiều” là một công trình nghệ thuật, về ngôn ngữ, về thơ lục bát, về tả cảnh, tả tình, tả người, ... bút pháp nghệ thuật của Nguyễn Du trở thành mẫu mực cổ điển vô song.
3. Tóm tắt “Truyện Kiều “ của Nguyễn Du
Dưới thời Gia Tĩnh triều Minh, ông bà Vương Viên ngoại ở Bắc Kinh sinh được 3 người con, hai gái, một trai:
“Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia.
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”.
Hai chị em Kiều có nhan sắc “Mỗi người một vẻ mười phán vẹn mười”, và đã đến “tuần cập kê”.
Mùa xuân năm ấy, 3 chị em đi thanh minh. Lúc ra về khi bóng chiều đã ngả, họ gặp chàng văn nhân Kim Trọng “vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa”. Sau cuộc kì ngộ ấy, Kiều và Kim Trọng yêu nhau, hai người thề nguyền “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”. Kim Trọng nhận được thư nhà, chàng phải vội về Liêu Dương “hộ tang” chú...
Sau đó, gia đình Kiều gặp tai biến, bị thằng bán tơ vu oan. Cha và em Kiều bị bắt, bị tra tấn dã man. Bọn sai nha, lũ đầu trâu mặt ngựa ập đến đập phá nhà cửa tan hoang, cướp bóc tài sản “Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”. Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh với giá “vàng ngoài bốn trăm”, để đút lót cho bọn quan lại, cứu cha và em. Nàng đã trao duyên cho Thúy Vân. Mã Giám Sinh đưa nàng về Lâm Tri. Kiều biết mình bị đẩy vào lầu xanh bèn rút dao tự vẫn nhưng không chết. Nàng được ma Đạm Tiêm báo mộng là phải đến sông Tiền Đường sau này mới hết kiếp đoạn trường. Mụ Tú Bà dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích; mụ thuê Sở Khanh đánh lừa Kiều, đưa nàng đi trốn. Kiều bị Tú Bà giăng bẫy, mắc lận Sở Khanh. Thúy Kiều bị Tú Bà đánh đập, ép nàng phải sống cuộc đời ô nhục. Tại lầu xanh, Kiều gặp Thúc Sinh, một khách làng chơi giàu có. Thúc Sinh chuộc Kiều ra lầu xanh và lấy Kiều làm vợ lẽ. Hoạn Thư, vợ cả Thúc Sinh lập mưu bắt cóc Thúy Kiều đưa về Vô Tích để đánh ghen.
Kiều bỏ trốn, nương tựa cửa chùa Giác Duyên... Kiều lại rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh, bị đẩy vào lầu xanh lần thứ hai. Từ Hải, khách biên đình tìm đến gặp Kiều. Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cưới nàng làm vợ “Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”. Một năm sau, Từ Hải đã có 10 vạn tinh binh, rạch đôi sơn hà, lập nên một triều đình “Năm năm hùng cứ một phương hải tần”. Kiều báo ân báo oán.
Hồ Tôn Hiến “tổng đốc trọng thần” xảo quyệt lập kế “chiêu an”. Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết chết. Hắn bắt Kiều hầu rượu đánh đàn trong bữa tiệc quan. Hắn ép gả Kiều cho viên thổ quan. Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử. Giác Duyên đã cứu sống Kiều và đưa nàng nương nhờ cửa Phật.
Sau nửa năm về Liêu Dương..., Kim Trọng trở lại Bắc Kinh, tìm đến vườn Thúy. Kim Trọng kết duyên với Thúy Vân. Kim Trọng và Vương Quan thi đỗ, được bổ đi làm quan. Cả gia đình tìm đến sông Tiền Đường lập đàn giải oan cho Kiều. Bất ngờ vãi Giác Duyên đi qua và cho biết Kiều còn sống, đang tu ở chùa.
Kiều gặp lại cha mẹ, hai em và chàng Kim sau 15 năm trời lưu lạc. Trong bữa tiệc đoàn viên, cả nhà ép Kiều phải lấy Kim Trọng, nhưng rồi hai người đã đem tình vợ chồng đổi thành tình bè bạn:
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.

II. Đọc - cảm thụ
1. Phân tích tài sắc của Thuý Vân và Thuý Kiều qua đoạn thơ “Chị em Thuý KiềuBài làm
Đoạn thơ trích trong phần mở đầu của “Truyện Kiều” có thể nói đây là bức chân dung xinh xắn, đẹp đẽ của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân.
Bốn câu mở đầu là lời giới thiệu chung về hai nhân vật có nhan sắc lộng lẫy này, hai cô con gái đầu lòng của nhà Viên ngoại họ Vương. Hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng kết hợp với phép ẩn dụ là những biện pháp tu từ trong thơ văn cổ cho ta thấy sắc đẹp hai chị em Thuý Kiều thật là thanh tao, trong trắng như mai, như tuyết của thiên nhiên. Những người con gái vừa mới lớn dậy này đã được Nguyễn Du giới thiệu thật súc tích nhưng đầy trân trọng mến thương: 
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Họ đẹp từ hình dáng bên ngoài cho đến tâm hồn bên trong.
Sau lời giới thiệu chung là bức chân dung của nàng Vân. Vẫn bút pháp ước lệ kết hợp với một hệ thống từ ngữ chọn lọc, bốn câu thơ tiếp theo như vẽ ra trước mắt ta hình ảnh người thiếu nữ trong sáng, ngây thơ, rất đỗi đoan trang, phúc hậu dễ hoà đồng với người và cảnh chung quanh. Đây là cái đẹp toàn bích của người con gái hiền dịu, trong sáng, vô tư, không gợn một nét nhỏ bụi trần từ “khuôn trăng”, “nét ngài” cho đến nụ cười, giọng nói. Nhưng nhà họa sĩ ngôn từ hình như không phải dụng công nhiều trong việc miêu tả nhân vật này. Bút lực của ông còn dành cho nhân vật Thuý Kiều. Nhà thơ tả Thuý Vân, tưởng như sắc đẹp của Thuý Vân không ai hơn được nữa, để rồi sau đó, Thuý Kiều xuất hiện thì Thuý Vân chỉ là cái nền làm tôn thêm vẻ đẹp của Kiều. Chỉ với hai câu:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn”.
như là một phép đòn bẩy, nhà thơ đã nâng nhân vật chính lên một bậc cao hơn hẳn cả tài lẫn sắc trước mắt người đọc. Đến đây, tác giả không dừng lại ở hình thức bên ngoài đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” mà đi sâu vào tài năng, tính cách bên trong, vào sự “sắc sảo mặn mà”, “Sắc đành đòi một tài đành họa hai” của Thuý Kiều.
Nếu ở nàng Vân, cái đẹp phúc hậu, đoan trang dễ chinh phục chung quanh:
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
thì ở nàng Kiều, cái đẹp “sắc sảo” dễ gây cho tạo vật sự ghen tuông, hờn dỗi: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.
Các cụ ta xưa đã nhận xét về cái đẹp của hai chị em Kiều, một người là “sắc trung chi hiền”, một người là “sắc trung chi thánh”, kể cũng đã chí lí lắm vậy.
Thực ra vẻ đẹp bên ngoài là điều đáng chú ý, song đáng quan tâm hơn vẫn là tài hoa và tính cách của nhân vật. Tác giả đã dùng nhiều câu kiến trúc theo lối tiểu đối để cho tài và sắc của Thuý Kiều được giới thiệu đến mức độ tới hạn của nó:
- Mai cốt cách/ tuyết tinh thần
-Mây thua nước tóc/ tuyết nhường màu da
- Làn thu thuỷ/ nét xuân sơn,
- Hoa ghen thua thắm/ liễu hờn kém xanh.
- Sắc dành đòi một/ tài dành họa hai.
Chưa hết, Nguyễn Du đã không tiếc lời ca ngợi nàng bằng một loạt từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối: “Thông minh vốn sẵn tính trời!”, “Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm”, “Cung thương làu bậc ngũ âm, Nghề riêng án đứt hồ cầm một trương”. Không một chữ đưa đẩy, các chữ, các hình ảnh đối chọi nhau và các từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối, đã thực sự tạo nên nhịp thơ trang trọng, đĩnh đạc, càng tôn thêm tài sắc của Thuý Kiều.
Hai vẻ đẹp khác nhau nhưng bút pháp xây dựng lại giống nhau. Tác giả xây dựng hình tượng nhân vật đều thuần những đường cong: làn nước mùa thu, dáng núi mùa xuân, khuôn trăng, nét ngài, tóc mây, da tuyết, ... Nói là chị em Thúy Kiều, nhưng đoạn thơ hướng tới việc giới thiệu nàng Kiều với vẻ đẹp sắc sảo, tài hoa đến
mức làm cho “hoa ghen” “liễu hờn”, mà tài sắc khiến tạo hóa phải hờn, ghen thì cuộc sống tương lai của Thúy Kiều hẳn sẽ chẳng dễ dàng gì.
Tóm lại, đoạn thơ ngắn gọn, bố cục hoàn chỉnh, chặt chẽ, với nghệ thuật tả người bậc thầy, bút pháp điêu luyện, đã chỉ đúng thần thái, cốt cách của nhân vật, qua ngoại hình đã bộc lộ nội tâm, lưu ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc; đồng thời dự báo những gì sẽ đến với từng nhân vật: cuộc đời Thuý Vân sẽ chẳng biết đến “sóng gió”, còn cuộc đời Thuý Kiều sẽ không tránh khỏi “mệnh bạc”, “đoạn trường”.
                                                                                      Tống Trần Ngọc
2. Phân tích đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều” trích trong “Truyện Kiều” của thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều” trích trong “Truyện Kiều” của thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. 24 câu lục bát đã miêu tả sắc, tài và đức hạnh chị em Thúy Kiều, Thúy Vân - hai tuyệt thế giai nhân - với tất cả tấm lòng quý mến và trân trọng của nhà thơ thiên tài dân tộc.
1. Bốn câu đầu, Nguyễn Du giới thiệu vị thứ trong gia đình: Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”, là con đầu lòng của ông bà Vương Viên ngoại. “Hai ả tố nga” là hai cô gái xinh xắn, xinh tươi. Cốt cách thanh cao như mơi (một loài hoa đẹp và quý), tinh thần trinh trắng như tuyết. Hai chị em có nhan sắc tâm hồn hoàn mĩ “mười phân vẹn mười”, tuy thế, mỗi người lại có một nét đẹp riêng “mỗi người một vẻ”. Một cái nhìn phát hiện đầy trân trọng; lấy mai và tuyết làm chuẩn mực cái đẹp, Nguyễn Du miêu tả tâm hồn trong sáng, trinh trắng làm rõ cái thần bức chân dung thiếu nữ.
2. Bốn câu tiếp theo tả nhan sắc Thúy Vân. Mỗi câu thơ là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung giai nhân. Cử chỉ, cách đi đứng... rất trang trọng quý phái. Cách ứng xử thì đoan trang. Mày nở nang, thanh tú như mày con bướm tằm. Gương mặt xinh tươi như trăng rằm. Nụ cười tươi thắm như hoa. Tiếng nói trong như ngọc. Tóc mềm, óng mượt đến nỗi “mây thua”. Da trắng mịn làm cho tuyết phải “nhường”. Cách miêu tả đặc sắc, biến hóa.
Sử dụng ẩn dụ, nhân hóa tài tình:
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang”.
Dùng thủ pháp so sánh, nhân hóa:
Mây thua nước tóc, tuyết nhựờng màu da”.
Từ ngữ: “trang trọng”, “đoan trang” là 2 nét vẽ tinh tế, gợi tả cái thần của bức chân dung ả tố nga: vẻ đẹp quý phái, phúc hậu. Một cái nhìn nhân văn đầy quý mến trân trọng của nhà thơ khi miêu tả Thúy Vân.
3. Mười hai câu tiếp theo tả sắc, tài Thúy Kiều. Nguyễn Du tả Thúy Vân trước, tả Thúy Kiều sau, chỉ dùng 4 câu tả Thúy Vân, dùng đến 12 câu tả Thúy Kiều. Đó là một dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du, Kiều không chỉ đẹp mà còn nhiều tài năng, vẻ đẹp của Kiều là “sắc sảo, mặn mà”, đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”. Kiều là tuyệt thế giai nhân “sắc đành đòi một”. Tài năng thì may ra còn có người thứ hai nào đó bằng Kiều: “tài đành họa hai”. Nguyễn Du dùng biện pháp tu từ ẩn dụ so sánh kết hợp với nhân hóa thậm để ca ngợi và miêu tả nhan sắc Thúy Kiều: 
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.
Mắt đẹp xanh trong như nước hồ thu, lông mày thanh tú như dáng vẻ, nét núi mùa xuân. Môi hồng má thắm làm cho “hoa ghen”', nước da trắng xinh làm cho liễu phải “hờn”. Vẫn lấy vẻ đẹp thiên nhiên (thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu) làm chuẩn mực cho cái đẹp giai nhân, đó là bút pháp ước lệ trong thơ cổ điển. Tuy nhiên, nét vẽ của Nguyễn Du tài hoa quá, nét vẽ nào cũng có thần rất đẹp, một vẻ đẹp nhân văn.
Kiều “Thông minh vốn sẵn tính trời”, nghĩa là thông minh bẩm sinh, cho nên các môn nghệ thuật như thi, họa, ca, ngâm, chỉ là các thú tao nhã, nhưng nàng rất sành điệu, điêu luyện: “lầu bậc”, “ăn đứt” hơn hẳn thiên hạ:
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đức hồ cầm một trương”.
Kiều giỏi về âm luật, giỏi đến mức “làu bậc”. Cây đàn mà nàng chơi là cây đàn hồ cầm; tiếng đàn của nàng thật hay “ăn đứt” bất cứ nghệ sĩ nào. Kiều còn biết sáng tác âm nhạc, tên khúc đàn của nàng sáng tác ra là một “thiên bạc mệnh” nghe buồn thê thiết “não nhân”, làm cho lòng người sầu não, đau khổ. Các từ ngữ: sắc sảo, mặn mà, phần hơn, ghen, hờn, nghiêng nước nghiêng thành, đòi một, họa hai, vốn sẵn, pha nghề, đủ mùi, làu bậc, ăn đứt, bạc mệnh, não nhân - tạo nên một hệ thống ngôn ngữ cực tả tài sắc và hé lộ dự báo số phận bạc mệnh của Kiều, như ca dao lưu truyền:
Một vừa hai phải ai ơi!
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”.
4. Bốn câu cuối đoạn nói về đức hạnh 2 ả tố nga: Tuy là khách “hồng quần”, đẹp thế, tài thế, lại phong lưu rất mực, đã tới tuần “cập kê” nhưng “hai ả tố nga” đã và đang sống một cuộc đời nền nếp, gia giáo:
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”.
Câu thơ “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” là một câu thơ độc đáo về thanh điệu, về sử dụng phụ âm “x” (xuân xanh xấp xỉ), phụ âm “t” (tới tuần), phụ âm “c-k” (cập kê) tạo nên âm điệu nhẹ nhàng, êm đềm của cuộc sống yên vui, êm ấm của thiếu nữ phòng khuê.

Đoạn thơ nói về “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong “Truyện Kiều” được nhiều người yêu thích và thuộc lòng. Ngôn ngữ thơ tinh luyện, giàu cảm xúc. Nét vẽ hàm súc, gợi cảm, nét vẽ nào cũng có thần. Các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được thi hào vận dụng thần tình tạo nên những vần thơ ước lệ mà trữ tình, đầy chất thơ. Hàm ẩn sau bức chân dung mĩ nhân là cả một tấm lòng quý mến trân trọng. Đó là nghệ thuật tả người điêu luyện của thi hào Nguyễn Du mà ta cảm nhận được.

3. Cảm nhận của em về bức tranh “Cảnh ngày xuân” trong “Truyện Kiều
Trang thơ của Nguyễn Du đang mở rộng trước mắt chúng ta. Sau bức chân dung giai nhân là bức họa về cảnh sắc mùa xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của trai tài gái sắc, của chị em Thúy Kiều. Đoạn thơ “Cảnh ngày xuân” gồm có 18 câu, từ câu 39 dến câu 56 trong “Truyện Kiều”, tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật tả cảnh và tả tình của thi hào Nguyễn Du. Một vẻ đẹp thanh xuân, một niềm vui xôn xao, náo nức cứ dâng lên, lan tỏa, rồi lắng dịu mãi trong lòng ta khi đọc đoạn thơ này.
1. Bốn câu thơ đầu mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc, hữu hương, hữu lình, nên thơ. Giữa bầu trời bao la mênh mông? những cánh én bay qua bay lại như “đưa thoi”. Cánh én mùa xuân thân mật biết bao. Hai chữ “đưa thoi” rất gợi hình, gợi cảm. Cánh én như con thoi vút qua, vút lại, chao liệng; thời gian đang trôi nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh. Câu thành ngữ - tục ngữ: “Thời gian thấm thoắt thoi đưa, như nước chảy qua cầu” đã nhập vào hồn thơ Tố Như tự bao giờ ?
Sau cánh én “đưa thoi” là ánh xuân, là “thiều quang” của mùa xuân khi “chín chục đã ngoài sáu mươi”. Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của các thi nhân xưa nay thật hay và ý vị. Nào là “xuân hướng lão” (úc Trai), nào là cảnh mưa bụi, tiếng chim kêu trong Đường thi. Nào là cánh bướm rối rít bay trong thơ Trần Nhân Tông. Rồi “xuân hồng” (Xuân Diệu), “mùa xuân chín” (Hàn Mặc Tử), v.v... Với Nguyễn Du, mùa xuân đã bước sang tháng ba, “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”. Hai chữ “thiều quang” gợi lên cái màu hồng của ánh xuân, cái ấm áp của khí xuân, cái mênh mông bao la của đất trời “Xuân giang, xuân thủỵ tiếp xuân thiên
                                                                   (“Nguyên tiêu” - Hồ Chí Minh).
Xuân còn là sắc “xanh” mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non trải dài, trải rộng như tấm thảm “tận chân trời”. Là sắc “trắng” tinh khôi, thanh khiết của hoa lê mới lác đác nở, chỉ vừa hé lộ, khoe sắc khoe hương “một vài bông” điểm xuyết trong không gian bát ngát:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.
Vần cổ thi Trung Hoa được Tố Như vận dụng một cách sáng tạo: “Phương thảo liên thiên bích - Lê chi sổ điểm hoa”. Hai chữ “trắng điểm” là nhãn tự, cách chấm phá điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp thanh xuân trinh trắng của thiên nhiên cỏ hoa; bút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình: trên cái nền xanh của cỏ non là một vài bông lê “trắng điểm”. Giữa diện và điểm, giữa nền xanh và sắc trắng của cảnh vật mùa xuân là những cánh én “đưa thoi”, là màu hồng của ánh thiều quang, là khát vọng mùa xuân ngây ngất, say đắm lòng người:
“Nhìn hoa đang hé tưng bừng,
Khao khát mùa xuân yên vui lại đến”.
(Ca khúc “Khát vọng mùa xuân” - Mô-da)
Cảnh mùa xuân” là bức tranh xuân hoa lệ, là vần thơ tuyệt bút của Nguyễn Du để lại cho đời, điểm tô cho cuộc sống chúng ta. Phải chăng, thi sĩ Chế Lan Viên đã học tập Tố Như để viết nên vần thơ xuân đẹp này:
“Tháng giêng hai xanh mướt cỏ đồi,
Tháng giêng hai vút trời bay cánh én...”?
                                                                    (Ý nghĩ mùa xuân)
2. Tám câu thơ tiếp theo tả cảnh trẩy hội mùa xuân: “Lễ là tao mộ, hội là đạp thanh” trong tiết tháng ba. Điệp ngữ: “lễ là... hội là...” gợi lên những cảnh lễ hội dân gian cứ liên tiếp diễn ra đã bao đời nay: “Tháng giêng là tháng ăn chơi - Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè”... (Ca dao). Cảnh trẩy hội đông vui, tưng bừng, náo nhiệt. Có biết bao “yến anh” cùng trong niềm vui “nô nức”, hồ hởi, giục giã đó. Có biết bao tài tử, giai nhân “dập dìu” vai sánh vai, chân nối chân nhịp bước. Dòng người trẩy hội tấp nập ngựa xe cuồn cuộn “như nước”, áo quần đẹp đẽ, tươi thắm sắc màu, nghìn nghịt, đông vui trên các nẻo đường “như nêm”. Các từ ngữ: “nô nức”, “dập dìu”, các ẩn dụ so sánh (như nước, như nêm) đã gợi tả lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt đang diễn ra trên khắp mọi miền quê đất nước. Thật trẻ trung và xinh đẹp, sang trọng và phong lưu:
“Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.”
Trong đám tài tử, giai nhân “gần xa” ấy, có ba chị em Kiều. Câu thơ “Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân” mới đọc qua tưởng như chỉ là một thông báo. Nhưng sâu xa hơn, nó ẩn chứa bao nỗi niềm: chờ trông mong đợi, ngày lễ tảo mộ, ngày hội đạp thanh để du xuân trong những bộ quần áo đẹp đã được chuẩn bị, đã “sắm sửa”... Có biết bao “bóng hồng” xuất hiện trong đám tài tử, giai nhân ấy? Ai đã từng đi hội chùa Hương, hội Lim, hội Yên Tử... mới cảm thấy cái đẹp, cái vui, cái tưng bừng, tươi trẻ trong hội đạp thanh mà Nguyễn Du đã nói đến.
Thơ là nghệ thuật của ngôn từ. Các từ ghép: “yến / anh”, “chị / em”, “tài / tử”, “giai / nhân” “ngựa / xe”, “áo / quần” (danh từ); “gần / xa” , “nô / nức”, “sắm / sửa”, “dập / dìu” (tính từ, động từ) được thi hào sử dụng chọn lọc tinh tế, làm sống lại cái không khí lễ hội mùa xuân, một nét đẹp văn hóa lâu đời của phương Đông, của Trung Hoa, của Việt Nam chúng ta, trong nếp sống “phong lưu” của chị em Kiều.
Tiếp đến cảnh:
Ngổn ngang / gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc / tro tiền giấy bay.”
là đi sâu vào đời sống tâm linh, phong tục dân gian truyền thống trong lễ tảo mộ, được Nguyễn Du nói đến với nhiều cảm thông, san sẻ. Cõi âm và cõi dương, người đang sống và kẻ đã khuất, hiện tại và quá khứ đồng hiện trên những gò đống “ngổn ngang” trong lễ tảo mộ. Cái tâm thánh thiện, niềm tin phác thực dân gian đầy ắp nghĩa tình. Các tài tử, giai nhân, và ba chị em Kiều không chỉ nguyện cầu cho những vong linh mà còn gửi gắm bao niềm tin, ao ước về tương lai hạnh phúc cho tuổi xuân khi mùa xuân về. Có thể sau hai trăm năm, ý nghĩ của mỗi chúng ta có ít nhiều đổi thay trước cảnh “Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay”, nhưng giá trị nhân bản của vần thơ Nguyên Du vẫn làm ta xúc động!
3. Sáu câu thơ cuối đoạn ghi lại cảnh chị em Kiều đi tảo mộ đã đang dần bước trở lại về nhà. Mặt trời đã “tà tà” gác núi. Ngày hội, ngày vui trôi qua nhanh:
Tà tà, bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về"
Hội tan sao chẳng tiếc? Ngày tàn sao chẳng buồn? Nhịp thơ chậm rãi cùng nhịp sống như ngừng trôi. Tâm tình thì “thơ thẩn”, cử chỉ thì “dan tay”, nhịp chân thì “bước dần”. Một cái nhìn man mác, bâng khuâng: “lần xem”... đối với mọi cảnh vật. Tất cả đều nhỏ bé. Khe suối chỉ là “ngọn tiểu khê”. Phong cảnh “thanh thanh” bảng lảng. Dòng nước thì “nao nao” uốn quanh. Dịp cầu thì “n//ho nhỏ” bắc ngang ở cuối ghềnh. Cả một không gian êm đềm, vắng lặng.
Tâm tình của chị em Kiều như dịu lại trong bóng tà dương, mà phảng phất nỗi niềm trong mỗi bước chân :
“Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.”
Các từ láy tượng hình: “thanh thanh”, “nao nao”, “nho nhỏ” gợi lên sự nhạt nhòa của cảnh vật và sự rung động của tâm hồn giai nhân trong cảnh hội tan, ngày tàn. Nỗi niềm man mác bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn của những giai nhân đa tình, đa cảm.
Ở đây, cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút pháp ước lệ tượng trưng nhưng rất sống động, gần gũi, thân quen đối với bất cứ người Việt Nam nào. Không có gì xa lạ, vì ngọn tiểu khê ấy, dịp cầu nho nhỏ ấy đích thực là cảnh sắc quê hương đất nước mình. Tính dân tộc là một nét đẹp đậm đà trong thơ Nguyễn Du, nhất là những vần thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt tác như vậy.
Thi sĩ Xuân Diệu từng viết: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”. Trong “Thương nhớ mười hai”, Vũ Bằng không nén nổi cảm xúc của mình khi thốt lên: “Mùa xuân của tôi... Cái mùa xuân thần thánh của tôi... Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến...”. Và chúng ta muốn nói thêm: “Đẹp quá đi mùa xuân của đất nước thân yêu ! Vui quá đi, trẻ đẹp quá đi cảnh mùa xuân, cảnh trẩy hội ngày xuân trong Truyện Kiều”. Mùa xuân đem đến cho ta bao ước vọng. Sắc xuân, tình xuân như nở hoa, ướp hương trong lòng ta.
Hỡi những nàng Kiều gần xa có nghe thấy tiếng nhạc vàng của chàng Kim Trọng trong ngày hội xuân náo nức, bồi hồi đang từ xa vọng tới ?...

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây